Tìm hiểu chi tiết tiểu sử của 10 cô gái Ngã Ba Đồng Lộc
Ngã Ba Đồng Lộc nổi tiếng không chỉ vì vị trí chiến lược quan trọng mà còn vì sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái trẻ tuổi. Những người này đã cống hiến cả cuộc đời mình trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Bài viết này sẽ điểm lại tiểu sử của những cô gái anh hùng, những người đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc và lịch sử Việt Nam.
Vị trí địa lý và sự kiện lịch sử
Ngã ba Đồng Lộc, tọa lạc trên đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua dãy Trường Sơn tại tỉnh Hà Tĩnh, là điểm giao nhau giữa quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh, nằm trong thị trấn Đồng Lộc, huyện Can Lộc.
Đây là một trong những điểm giao thông chiến lược quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam. Vì lý do này, quân đội Hoa Kỳ đã triển khai nhiều máy bay để ném bom nhằm cắt đứt tuyến đường hành quân của lực lượng quân Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tại đây, có một tiểu đội thanh niên xung phong có nhiệm vụ bảo vệ giao điểm, xử lý bom nổ chậm và sửa chữa đường khi bị phá hủy. Tiểu đội 4, Đại đội 552, đảm nhận đoạn đường từ Cầu Tối đến Truông Kén khoảng 2 km, đặc biệt là khu vực 300 mét từ Cầu Tối đến Trường Thành, với 10 cô gái trẻ tuổi từ 17 đến 24.
Vào trưa ngày 24 tháng 7 năm 1968, như thường lệ, 10 cô gái ra làm nhiệm vụ. Vào lúc 16h30′, một trận bom thứ 15 trong ngày đã rơi xuống Đồng Lộc. Một quả bom rơi trúng ngay gần miệng hầm nơi các cô đang trú ẩn. Tất cả họ đã qua đời khi còn rất trẻ, nhiều người chưa kết hôn.
10 cô gái Đồng Lộc
Vào ngày 24 tháng 7 năm 1968, Tiểu đội 4 do chị Võ Thị Tần chỉ huy có 12 thành viên. Trong đó, chị Lê Thị Hồng (Đức Lạc, Đức Thọ) được cử đi Quảng Bình để lấy gỗ làm hầm, và chị Nguyễn Thị Thanh bị ốm nên không có mặt tại hiện trường. Do đó, chỉ có 10 người trong Tiểu đội 4 tham gia nhiệm vụ vào ngày 24 tháng 7 năm 1968 và tất cả đều hy sinh. Bà Nguyễn Thị Diệu Lan (TP Hà Tĩnh), cựu thanh niên xung phong của Tiểu đội 3, đã tham gia vào việc tìm kiếm thi thể của các nữ thanh niên xung phong. Họ tìm thấy thi thể trong các hầm: một hầm có ba người, một hầm khác có sáu người, trong đó có chị Võ Thị Tần. Thi thể của chị Cúc được tìm kiếm cẩn thận, với chỉ thị không dùng máy xúc để bảo vệ thi thể. Sau ba ngày tìm kiếm, thi thể chị Cúc đã được tìm thấy bởi các thành viên Tiểu đội 8, sau khi họ đã đào bới bằng tay.
Nhà thơ Yến Thanh nhớ lại rằng vào lúc 16 giờ ngày 24 tháng 7 năm 1968, một quả bom lớn từ máy bay Mỹ đã rơi xuống và làm sập căn hầm nơi Tiểu đội đang trú ẩn. Đại đội trưởng Nguyễn Thế Linh cùng các thành viên Tiểu đội 5, Tiểu đội 8 và các lái máy ủi gần đó đã ngay lập tức đến hỗ trợ. Sau hai giờ đào bới, thi thể của chị Võ Thị Tần đã được tìm thấy. Các thi thể khác được tìm thấy lần lượt gồm chị Nguyễn Thị Xuân (Vĩnh Lộc), Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hà, Trần Thị Rạng và Trần Thị Hường. Trong hầm thứ hai, vuông góc với hầm đầu tiên, tìm thấy Dương Thị Xuân, Võ Thị Hợi và Hà Thị Xanh. Tất cả chín người được đặt lên cáng và xếp hàng như khi còn sống. Thi thể của chị Hồ Thị Cúc – Tiểu đội phó không được tìm thấy ngay lập tức. Đến gần 10 giờ ngày 26 tháng 7, Tiểu đội 8 đã phát hiện thi thể chị Cúc trong một hố cá nhân, với tình trạng cơ thể bầm dập và máu đã khô, có vẻ như chị đã cố gắng thoát ra nhưng không thành công do đất đè nặng.
Dưới đây là danh sách 10 cô gái đã hy sinh tại đây:
Họ và tên | Năm sinh | Tuổi lúc qua đời | Chức vụ | Nguyên quán |
Võ Thị Tần | 1944 | 24 | Tiểu đội trưởng | Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh |
Hồ Thị Cúc | 1944 | 24 | Tiểu đội phó | Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh |
Võ Thị Hợi | 1948 | 20 | Chiến sĩ | Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh |
Nguyễn Thị Xuân | 1948 | 20 | Chiến sĩ | Vĩnh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh |
Dương Thị Xuân | 1947 | 21 | Chiến sĩ | Đức Tân, Đức Thọ, Hà Tĩnh |
Trần Thị Rạng | 1950 | 18 | Chiến sĩ | Đức Vĩnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh |
Hà Thị Xanh | 1949 | 19 | Chiến sĩ | Đức Hòa, Đức Thọ, Hà Tĩnh |
Nguyễn Thị Nhỏ | 1944 | 24 | Chiến sĩ | Đức Lạng, Đức Thọ, Hà Tĩnh |
Võ Thị Hà | 1951 | 17 | Chiến sĩ | Thị trấn Đức Thọ, Đức Thọ, Hà Tĩnh |
Trần Thị Hường | 1949 | 19 | Chiến sĩ | Thị xã Hà Tĩnh, Hà Tĩnh |
Tiểu đội trưởng Võ Thị Tần: Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo, chị Võ Thị Tần đã trở thành Phó bí thư chi đoàn địa phương vào năm 1963–1964. Trước khi gia nhập quân đội, chị Tần đã có mối tình với anh Nguyễn Đức Hồng, bạn học từ nhỏ. Trước khi anh Hồng lên đường nhập ngũ, hai người đã tổ chức lễ đính hôn, và chị Tần đã tặng anh một lọn tóc như một lời hứa. Kỷ vật này theo anh Hồng trong suốt những tháng ngày chiến đấu và sau này được bàn giao cho Ban quản lý Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc. Vào giữa năm 1968, anh Hồng bị thương nặng trong trận chiến tại đảo Cồn Cỏ và vẫn còn mang 6 mảnh đạn trong người. Mẹ chị Tần cũng mất sau khi bị bom Mỹ phá hủy hầm không lâu sau khi chị hy sinh. Sau này, anh Hồng đã đưa ảnh chị Tần về thờ tại nhà mình.
Tiểu đội phó Hồ Thị Cúc: Sinh trong một gia đình nông dân nghèo, chị Cúc mất cha và bà nội do nạn đói năm 1945 khi mới 7 tháng tuổi, và mẹ tái giá khi chị mới 4 tuổi. Chị sống với ông nội cho đến khi ông qua đời, sau đó chuyển về sống với cô chú. Lúc 18 tuổi, chị Cúc kết hôn với anh Cứ, người Sơn Tây trong huyện. Chồng chị mồ côi cha mẹ và bị bệnh tâm thần, thường xuyên bạo hành chị. Anh Cứ tử nạn trong một tai nạn lật thuyền khi chở vôi cho hợp tác xã. Chị Cúc trở về sống với cô chú và gia nhập thanh niên xung phong vào tháng 7 năm 1965. Chị và chị Võ Thị Tần cùng phục vụ trong cùng đơn vị suốt 3 năm và được kết nạp vào Đảng ngày 3/2/1967. Khi hy sinh, chị Cúc ẩn nấp trong một hố cá nhân, nên phải mất ba ngày mới tìm thấy thi thể chị cách chỗ các đồng đội hy sinh vài chục mét.
Võ Thị Hợi: Sinh ra trong một gia đình nông dân tại xã Thiên Lộc – Can Lộc, Hà Tĩnh, chị Võ Thị Hợi là con thứ năm trong gia đình. Sau khi hoàn thành lớp 7 vào năm 1965, chị xung phong gia nhập “Ba sẵn sàng”. Chị thường chỉ có cơ hội về thăm nhà ít ỏi và đã từng chia sẻ: “Bom đạn dội xuống khủng khiếp lắm mẹ ơi! Tiếng bom nổ, tiếng máy bay gầm rú suốt đêm ngày, đất đá bụi tung mù mịt. Nhưng tất cả bọn con đều không sợ. Khi đợt bom kết thúc, chúng con lập tức ra đường để không gây tắc nghẽn giao thông vào Nam, mẹ ạ!”
Nguyễn Thị Xuân: Nhập ngũ vào năm 1967, chị Nguyễn Thị Xuân đã quen biết anh Vĩnh, tiểu đội phó của đơn vị bộ đội công binh phá bom, và hai người đã viết nhiều thư cho nhau giữa các trận đánh. Chị Xuân tâm sự: “Nhiều đêm, em mơ thấy anh Vĩnh về thăm. Khi không nhận được thư từ anh, em lo lắng và nghĩ đến những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Nhưng em vẫn đợi…” Chị sau này biết rằng anh Vĩnh đã nhiều lần bị thương. Mối tình giữa họ vừa mới chớm nở thì chị Xuân đã hy sinh.
Dương Thị Xuân: Sinh ra và lớn lên ở Đức Tân – Đức Thọ trong một gia đình đông con, chị Dương Thị Xuân đã quen biết anh Tân, người cùng xã trước khi gia nhập thanh niên xung phong. Tương tự như mối tình của chị Tần và anh Hồng, chị Xuân và anh Tân cũng không thể thực hiện lời hẹn ước vì tình hình đất nước. Chị Xuân đã mến anh Tân nhưng không muốn bị vướng bận chuyện riêng tư, hứa rằng sẽ xem xét khi đất nước thống nhất. Anh Tân đã tặng chị một quyển điều lệ Đảng và buộc sợi dây ni lông xanh, đỏ vào cổ tay chị với lời dặn: “Màu đỏ là của anh, màu xanh là của em. Khi nào nhớ anh, em hãy nhìn vào chiếc vòng này”.
Trần Thị Rạng: Sinh ra tại xóm chài Thọ Thủy, Đức Vĩnh, Đức Thọ, chị Trần Thị Rạng đã có tuổi thơ gắn bó với công việc chèo lái trên sông La cùng cha mẹ. Ngày 3 tháng 11 năm 1967, chị gia nhập lực lượng Thanh niên xung phong. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, chị Rạng thường cùng các đồng đội tham gia vào các hoạt động như làm toán, viết văn, tập hát, và không quên những lúc nghỉ giải lao để đùa vui với đại đội trưởng và các anh lái xe ủi. Chị hy sinh khi mới 18 tuổi.
Hà Thị Xanh: Chị Hà Thị Xanh là một người mạnh mẽ và hoạt bát, luôn nhận những công việc khó khăn. Trong một lần nghỉ phép, chị đã mời chị Hà về nhà mình chơi. Khi ở nhà chị Xanh, chị Hà nói với mẹ chị Xanh rằng: “Chúng con, những thanh niên xung phong chống Mỹ, thực hiện phong trào ‘ba khoan,’ nghĩa là khoan việc lấy chồng.”
Nguyễn Thị Nhỏ: Mất cha mẹ từ sớm, chị Nguyễn Thị Nhỏ sống cùng chị gái Miên, người đã thay thế cha mẹ để chăm sóc chị từ nhỏ. Khi chiến tranh ngày càng ác liệt, chị Nhỏ quyết định gia nhập Thanh niên xung phong. Chị hy sinh năm 24 tuổi, khi chưa có gia đình.
Võ Thị Hà: Sinh ra tại thị trấn Đức Thọ, chị Võ Thị Hà là con thứ ba trong một gia đình có năm người con. Lên 17 tuổi, chị gia nhập Thanh niên xung phong. Có lần về thăm nhà, chị vội vã ăn uống để không bị trễ. Chị thường mang theo vài quyển sách để đọc và thường nói rằng “Không có sách, ngoài giờ chiến đấu con cảm thấy buồn lắm mẹ ạ.” Là người trẻ nhất trong tiểu đội, chị luôn được các chị lớn hơn như chị Tần, chị Cúc, chị Nhỏ chăm sóc và không để làm việc nặng. Mẹ của chị đã gửi gà con đến Đồng Lộc cho chị em nuôi, và một lần, chị Hà đem về một con gà mái. Một hôm, con gà mái bất ngờ gáy như gà trống, mẹ chị Hà lo lắng và cho rằng sẽ có chuyện không hay xảy ra. Hai ngày sau, tin chị Hà hy sinh được báo về.
Trần Thị Hường: Chị Trần Thị Hường là con của một liệt sĩ chống Pháp, người cha hy sinh năm 1953 khi chị mới 4 tuổi. Sau khi mẹ tái hôn, chị sống cùng bà ngoại và cậu mợ tại xóm Đông Quế, thị xã Hà Tĩnh. Chị có giọng hát hay và được gọi là “chim sơn ca” của tiểu đội và Đại đội 522.
Ngày 23/7/2009, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức lễ khởi công xây dựng tượng đài cho 10 nữ thanh niên xung phong tại ngã ba Đồng Lộc. Đến ngày 19/8/2010, lễ khánh thành cụm tượng đài đã được tổ chức trọng thể. Công trình này có giá trị lịch sử và tâm linh sâu sắc, được xây dựng nhờ sự đóng góp tự nguyện của các viên chức ngành giáo dục, học sinh, và sinh viên từ khắp nơi trong cả nước.
Tiểu sử của 10 cô gái Ngã Ba Đồng Lộc không chỉ là những trang sử hào hùng mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ mai sau. Sự hy sinh của họ nhắc nhở chúng ta về lòng yêu nước và tinh thần quả cảm. Bài viết hy vọng đã giúp bạn hiểu rõ hơn về những anh hùng thầm lặng đã góp phần làm nên lịch sử vẻ vang của đất nước.