Tiểu sử 13 vị vua nhà Nguyễn và những quyết sách trọng đại
Nhà Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, mỗi vị vua đều có những đóng góp quan trọng như củng cố quyền lực đến đối mặt với các thách thức từ trong và ngoài nước. Bài viết này sẽ đưa bạn khám phá chi tiết tiểu sử của 13 vị vua nhà Nguyễn, những người đã góp phần định hình lịch sử và di sản văn hóa của Việt Nam.
Vương triều nhà Nguyễn được thành lập từ năm nào?
Nhà Nguyễn được thành lập vào năm 1802, trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của Việt Nam cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Sau khi vua Quang Trung đột ngột qua đời vào mùa thu năm 1792, nhà Tây Sơn bắt đầu suy yếu.
Nguyễn Phúc Ánh, cháu của chúa Nguyễn Phúc Khoát, đã lợi dụng tình hình này để tiến hành tấn công và dần chiếm lại các thành trì của Tây Sơn. Đến năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh đánh bại hoàn toàn nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước và chính thức lập nên triều Nguyễn.
Nguyễn Phúc Ánh sau đó lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, và đóng đô tại Phú Xuân (Huế). Đây cũng là cột mốc đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ chia cắt đất nước kéo dài gần 300 năm.
Hai năm sau khi lên ngôi, vào năm 1804, Gia Long đổi tên nước thành Việt Nam. Sau khi ông qua đời, con trai ông là Hoàng đế Minh Mạng kế vị và vào năm 1838, Minh Mạng lại đổi tên nước thành Đại Nam, thể hiện ý chí mở rộng và củng cố quyền lực của nhà Nguyễn.
Triều Nguyễn kéo dài 143 năm với 13 vị vua, từ Gia Long (1802-1820) đến Bảo Đại (1925-1945). Thời kỳ đầu của triều Nguyễn, đặc biệt dưới các vua Gia Long, Minh Mạng, và Thiệu Trị, đất nước phát triển ổn định và vững mạnh.
Nền kinh tế được phục hồi, văn hóa thịnh vượng, và thương mại phát triển mạnh mẽ. Nhà Nguyễn cũng chú trọng vào việc giáo dục và đào tạo nhân tài thông qua các kỳ thi cung đình thường xuyên, tạo ra một hệ thống quan lại triều đình vững chắc, đóng góp tích cực vào sự ổn định và phát triển của đất nước trong thời kỳ này.
Tiểu sử 13 vị vua nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm với 13 vị vua. Các đời vua nhà Nguyễn gồm: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại.
Vua Gia Long (1802-1820)
- Niên hiệu: Gia Long (嘉隆)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎)
- Ngày sinh: Ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (08/02/1762).
- Ngày mất: Ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (03/02/1820).
- Thời gian trị vì: 18 năm (1802 – 1820).
- Miếu hiệu: Thế Tổ Cao Hoàng đế.
Vua Gia Long là vị vua đầu tiên của triều Nguyễn, người có công lớn trong việc thống nhất đất nước sau gần 300 năm chia cắt bởi cuộc chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông nổi bật với sự kiên nhẫn và tài năng quân sự khi phải đối mặt với nhà Tây Sơn, cuối cùng đánh bại họ và lập nên triều đại nhà Nguyễn vào năm 1802.
Trong suốt thời gian trị vì, ông tập trung củng cố và xây dựng hệ thống hành chính, quân sự, và ngoại giao để đảm bảo sự ổn định của quốc gia. Ông đã đặt quốc hiệu là Việt Nam và cho xây dựng kinh thành Huế, hiện nay là một di sản văn hóa thế giới.
Năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta thành Việt Nam. Năm 1805, vua Gia Long đã cho xây dựng hệ thống kinh thành Huế và nay được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới nằm trong cụm Quần thể di tích cố đô Huế.
Nhà vua cho kiến lập hệ thống Lục Bộ và tập trung chấn chỉnh về quân sự, ngoại giao. Chú trọng đến việc học hành thi cử để tuyển chọn nhân tài. Trong thời kỳ này, vua Gia Long đã chia đất nước thành 3 vùng: Bắc Thành, Gia Định Thành và các Trực doanh (Trung Bộ) do triều đình trực tiếp cai quản.
Vua Minh Mạng (1820-1841)
- Niên hiệu: Minh Mạng (明命)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽)
- Ngày sinh: Ngày 23 tháng 04 năm Tân Hợi (25/05/1791).
- Ngày mất: Ngày 28 tháng Chạp năm Canh tý (20/01/1841).
- Thời gian trị vì: 21 năm (1820 – 1841).
- Miếu hiệu: Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.
Minh Mạng là con trai thứ tư của vua Gia Long, nổi tiếng với nhiều cải cách về hành chính và quân sự. Ông chia đất nước thành 31 tỉnh và tập trung vào việc xây dựng hệ thống hành chính chặt chẽ, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp để tăng cường nền giáo dục và tuyển chọn nhân tài.
Ông cũng là người đưa ra nhiều chính sách nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và tăng cường sức mạnh quân đội. Tuy nhiên, Minh Mạng duy trì chính sách cô lập với phương Tây, dẫn đến việc Việt Nam không bắt kịp được những tiến bộ khoa học và kỹ thuật của thế giới.
Vua Thiệu Trị (1841-1847)
- Niên hiệu: Thiệu Trị (紹治)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Miên Tông (阮福綿宗)
- Ngày sinh: Ngày 11 tháng 05 năm Đinh Mão (16/06/1807).
- Ngày mất: Ngày 27 tháng 09 năm Đinh Dậu (04/10/1847).
- Thời gian trị vì: 07 năm (1840 – 1847).
- Miếu hiệu: Hiến Tổ Chương Hoàng đế.
Thiệu Trị là con trưởng của vua Minh Mạng, ông được biết đến như một thi sĩ tài hoa và là một nhà lãnh đạo uyên bác về Nho học. Trong suốt thời gian trị vì, ông tiếp tục duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, và giáo dục của cha mình.
Ông cũng phải đối mặt với nguy cơ xâm lược ngày càng lớn từ thực dân Pháp, và điều này đã dẫn đến cuộc chiến tranh tại cửa biển Đà Nẵng năm 1847. Mặc dù có nhiều nỗ lực, Thiệu Trị không tìm được cách giải quyết hiệu quả cho vấn đề này trước khi ông qua đời.
Vua Thiệu Trị chú trọng việc học hành, cho tiếp tục soạn bộ “Đại Nam thực lục tiền biên”, bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ”, đồng thời bản thân nhà vua cũng nổi tiếng là người giỏi thơ văn, nổi bật nhất là bộ thơ “Ngự đề danh thắng đồ hội thi tập”.
Tuy nhiên vua Thiệu Trị không đưa ra cải cách gì mới mà chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự… từ thời Minh Mạng. Khi Thiệu Trị lên ngôi, chính sách bành trướng của Minh Mạng khiến lãnh thổ Đại Nam trở nên rộng lớn nhất trong lịch sử.
Thiệu Trị còn phải đối phó với nguy cơ xâm lược ngày càng lớn của thực dân Pháp. Đỉnh cao là trận cửa biển Đà Nẵng (1847) khi quân Pháp đánh chìm 5 thuyền đồng của thủy quân Đại Nam.
Thất bại này khiến hoàng đế rất tức giận và lo lắng, nhưng cho đến khi qua đời, Thiệu Trị và các quan của ông vẫn không tìm ra cách giải quyết hợp lý. Mười năm sau khi Thiệu Trị mất (1858), Pháp xâm lược Đại Nam, mở đầu thời kỳ Việt Nam bị Pháp đô hộ. Ông có khoảng 39 bà vợ và phi tần với 29 hoàng tử và 35 công chúa.
Vua Tự Đức (1847-1883)
- Niên hiệu: Tự Đức (嗣德)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任)
- Ngày sinh: Ngày 25 tháng 08 năm Kỷ Sửu (22/09/1829).
- Ngày mất: Ngày 16 tháng 06 năm Quý Mùi (19/07/1883).
- Thời gian trị vì: 36 năm (1847 – 1883).
- Miếu hiệu: Dực Tông Anh Hoàng đế.
Tự Đức là vị vua trị vì lâu nhất trong triều Nguyễn. Dưới thời của ông, đất nước đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm cả sự xâm lược của Pháp và các cuộc nổi dậy nội địa. Tự Đức nổi tiếng là một nhà văn học uyên bác nhưng lại thiếu quyết đoán trong việc điều hành đất nước.
Sự thiếu quyết đoán này đã góp phần dẫn đến sự suy yếu của triều Nguyễn, tạo điều kiện cho Pháp xâm lược và thiết lập ách đô hộ. Ông không có con nối dõi do mắc bệnh đậu mùa từ nhỏ, và sau khi qua đời, triều đình rơi vào giai đoạn khủng hoảng kế vị.
Vua Dục Đức (1883)
- Niên hiệu: Dục Đức hay Nguyễn Cung Tông (阮恭宗)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Ưng Ái (阮福膺禛)
- Ngày sinh: Ngày 04 tháng 01 năm Quý Sửu (11/02/1853).
- Ngày mất: Ngày 06 tháng 10 năm 1883.
- Thời gian trị vì: 3 ngày (1883).
Dục Đức là ông vua có số phận bi thảm nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn. Vua Dục Đức nổi tiếng với thời gian tại vị ngắn nhất lịch sử chỉ 3 ngày (từ ngày 20 đến ngày 23 tháng 7 năm 1883) thì bị hai vị phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hạch tội phế truất, bị giam và bỏ đói đến chết.
Tuy nhiên, 6 năm sau, Thành Thái – Một người con của ông chính thức lên ngôi hoàng đế thứ 10 của triều Nguyễn vào năm 1889. Vua Dục Đức (1852-1883) tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau được Tự Đức đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân.
Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Năm 17 tuổi, ông được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và cho xây dựng phòng riêng để học tập, giao cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên trông nom dạy bảo.
Chỗ học của vua về sau được gọi là Dục Đức Đường. Năm 1883, ông được phong làm Thụy Quốc công. Tài liệu của triều Nguyễn để lại rằng trong số 3 con nuôi của mình, vua Tự Đức yêu quý nhất và muốn truyền ngôi cho người con thứ ba là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con của Kiên thái vương và Nguyễn Thị Hương.
Khi mất, vua Dục Đức để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. Vua Dục Đức là cha của vua Thành Thái và là ông nội của vua Duy Tân sau này.
Vua Hiệp Hòa (1883)
- Niên hiệu: Hiệp Hòa (協和)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Hồng Dật (阮福洪佚)
- Ngày sinh: Ngày 01 tháng 11 năm 1847.
- Ngày mất: Ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29/11/1883).
- Thời gian trị vì: 4 tháng (1883).
Vua Hiệp Hòa tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Dật, khi lên ngôi đổi niên hiệu là Nguyễn Phúc Thắng, sinh quán tại Huế, con thứ 29 và là út của vua Thiệu Trị; Mẹ Doãn Tấn là bà Đoàn Thị Doãn (có sách ghi là Thuấn). Nguyên hiệu của ông là Lang Quốc Công.
Theo truyền thống của hoàng tộc Nguyễn Phúc từ thời thờ chúa Nguyễn Phúc Khoát, các hoàng tử sinh ra để dễ nuôi thường đặt tên là Mễ nên thuở nhỏ vua Hiệp Hòa cũng gọi là Mễ.
Hiệp Hòa trị vì đất nước trong 4 tháng từ 30 tháng 7 đến 29 tháng 11 năm 1883. Vua có 11 hoàng tử và 6 công chúa, chỉ biết người con thứ là Ưng Hiệp kế vị anh là Phong Lộc tước và một hoàng hậu. tên Ngọc Pha. Hai người con trai khác của ông là Nguyễn Phúc Ưng Bác, tu húy là Văn Lang Hương Công và Nguyễn Phúc Ưng Chuẩn.
Vua Kiến Phúc (1883-1884)
- Niên hiệu: Kiến Phúc (建福)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Ưng Đăng (阮福膺登)
- Ngày sinh: Ngày 02 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12/2/1869).
- Ngày mất: Ngày 10 tháng 06 năm Giáp Thân (31/07/1884).
- Thời gian trị vì: 8 tháng (1883 – 1884).
Vua Kiến Phúc là con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ưng Đăng sinh ngày 2 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12-2-1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.
Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) lúc mới 16 tuổi.
Sau khi mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng đế.
Vua Kiến Phúc chỉ làm vua được 8 tháng, trở thành vị vua hiển hách nhất của triều Nguyễn, khi vua băng hà khi mới 15 tuổi. Cái chết của ông có liên hệ mật thiết với Phi tần Nguyễn Văn Thị Hương và Phụ chính sứ Nguyễn Văn Tường.
Trong thời gian cầm quyền ngắn ngủi của mình, có một việc làm đáng nhớ của vua Kiến Phúc, đó là vào đầu tháng Giêng năm Giáp Thân (1884) triều đình đã cho chế tạo thử loại súng theo kiểu của Mỹ và Đức, đồng thời cho dệt thử một số loại vải hoa, vải bông như phương Tây.
Vua giao cho ông Nguyễn Xuân Phiếu phụ trách việc này cùng 3 người thợ máy, 15 thợ dệt và 20 biền binh. Những người này được phái đi học tập, thí nghiệm. Những người này sau khi thành thục đều được thăng chức hoặc thưởng tiền.
Dưới thời vua Kiến Phúc, ngày 6-6-1884, triều đình Huế ký với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Thân (Hòa ước Patenôtre), sửa đổi một số điều so với Hiệp ước Quý Mùi nhưng về cơ bản vẫn công nhận sự “bảo hộ” của Pháp đối với đất nước Việt Nam.
Vua Hàm Nghi (1884-1885)
- Niên hiệu: Hàm Nghi (咸宜)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Ưng Lịch (阮福膺禮)
- Ngày sinh: Ngày 17 tháng 06 năm Tân Mùi (03/8/1871).
- Ngày mất: Ngày 14 tháng 01 năm 1944.
- Thời gian trị vì: 1 năm (1884 – 1885).
Hàm Nghi nổi tiếng với phong trào Cần Vương, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống lại thực dân Pháp. Sau khi kinh đô Huế thất thủ, ông phải bỏ trốn vào miền núi và tiếp tục lãnh đạo phong trào kháng chiến. Tuy nhiên, Hàm Nghi bị bắt và lưu đày sang Algeria, nơi ông sống đến cuối đời.
Ngày 13/1/1889, vua đặt chân đến Algérie trong tình trạng suy nhược vì sốt rét. Vua ở trong biệt thự tại El Biar, dưới sự giám sát và bảo vệ nghiêm ngặt. Tại đây, ông bắt đầu học nhiếp ảnh, vẽ.
Suốt sự nghiệp, vua từng thực hiện ba triển lãm: tại Musée Guimet (tháng 6/1904), Galerie Mantelet (tháng 11/1911), Galerie Mantelet – Colette Weil (tháng 11/1926). Khi nhà văn Nga Tatiana Chtchepkina-Koupernik – người gặp ông tại dinh thự Gia Long – thúc giục tiếp tục tổ chức triển lãm ở Paris, ông từ chối.
Vua coi nghệ thuật như thú vui riêng, giúp quên đi thực tại là vị vua bị phế truất, đang sống lưu vong. Ông cũng chưa bao giờ bán bất kỳ tác phẩm nào. Hàm Nghi nổi tiếng đi liền với chiếu Cần Vương chống thực dân Pháp.
Năm 1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết rời khỏi kinh thành và phát phát động phong trào Cần Vương, kêu gọi văn thân, phò tá giúp vua, giúp nước.
Phong trào này kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông được đưa đến Algiers (thủ đô của Algérie) và qua đời tại đây vào năm 1943 vì căn bệnh ung thư dạ dày. Do áp lực của Pháp, triều Nguyễn không lập đền thờ cho ông.
Vua Đồng Khánh (1885-1889)
- Niên hiệu: Đồng Khánh (同慶)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Ưng Xụy (阮福膺祏)
- Ngày sinh: Ngày 19 tháng 02 năm Giáp Tý (19/12/1864).
- Ngày mất: Ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý (28/01/1889).
- Thời gian trị vì: 4 năm (1885 – 1889).
Đồng Khánh sinh ngày 19-2-1864, tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Thị và Nguyễn Phúc Ưng Đường, lên ngôi lấy niên hiệu là Nguyễn Phúc Biền, vị hoàng đế thứ 9 của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, cai trị từ 1885 đến 1889.
Đồng Khánh vốn là con nuôi của vua Tự Đức. Năm 1885, sau khi triều đình nhà Nguyễn bị quân Pháp đánh bại trong trận kinh thành Huế, Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết chạy vào Quảng Trị.
Đồng Khánh lên ngôi Pháp Dưới triều đại của ông, thực dân Pháp đã bắt đầu những công việc đầu tiên nhằm thiết lập một thời kỳ đô hộ 60 năm ở Tonkin (Bắc Kỳ) và An Nam (Trung Kỳ), trong khi triều đình Huế tỏ ra thần phục và hòa hoãn.
Không dám cãi lại Pháp, Đồng Khánh chủ trương tiếp thu văn minh Pháp, dùng hàng Tây. Chính vì lẽ đó mà sử sách Việt Nam sau thời Nguyễn thường coi ông là một ông vua phản động, vì lợi ích của mình mà cam tâm làm bù nhìn, tay sai cho ngoại bang.
Đầu năm 1889, Đồng Khánh ốm nặng qua đời khi còn khá trẻ, mới trị vì được 4 năm, hiệu là Cảnh Tông. Người kế vị ông là vua Thành Thái. Theo Đại Nam Thực Lục, hậu duệ của Nguyễn Phước Tộc, vua Đồng Khánh có vua có tất cả hơn 100 phi tần, họ sinh cho ông sáu hoàng tử và ba công chúa.
Tuy nhiên, sách Hoàng tộc Nguyễn chép rằng ông có 6 trai và 6 gái, nhưng không ghi rõ tên các công chúa.
Vua Thành Thái (1889-1907)
- Niên hiệu: Thành Thái (成泰)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Bửu Lân (阮福寶嶙)
- Ngày sinh: Ngày 22 tháng 02 năm Kỷ Mão (14/03/1879).
- Ngày mất: Ngày 18 tháng 2 năm Ất Mùi (09/03/1955).
- Thời gian trị vì: 19 năm (1889 – 1907).
Thành Thái nổi tiếng là một vị vua yêu nước và có tinh thần dân tộc cao. Ông giả điên để che mắt thực dân Pháp, nhưng vẫn bí mật chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa chống lại họ. Tuy nhiên, khi âm mưu bị lộ, ông bị buộc thoái vị và bị lưu đày sang đảo Réunion. Sau nhiều năm lưu đày, ông được phép trở về Việt Nam và sống tại Vũng Tàu cho đến khi qua đời.
Vua Duy Tân (1907-1916)
- Niên hiệu: Duy Tân (維新)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊)
- Ngày sinh: Ngày 26 tháng 08 năm Canh Tý (19/09/1900).
- Ngày mất: Ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25/12/1945).
- Thời gian trị vì: 9 năm (1907 – 1916).
Lên ngôi vua, Duy Tân được người Pháp tạo điều kiện để vui chơi nhằm quên đi việc nước. Nhưng trái lại, Duy Tân chăm chỉ học tập để am hiểu nhiều lĩnh vực như tiếng Pháp, triết học, chính trị học, luật lệ, triều chính…
Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ như đàn nguyệt, đàn tranh, và tiếp thu kiến thức văn hóa, thành tựu của phương Tây. Cha bị thực dân Pháp đày ải, ông được Pháp đưa lên ngôi vua khi 7 tuổi. Tuy nhiên, càng lớn, vua Duy Tân càng có những lời nói và cử chỉ tỏ rõ ý chí chống Pháp.
Năm 1916, lợi dụng khi châu Âu đang trong chiến tranh, ông đã bí mật bắt liên lạc với các tướng của Việt Nam Quang Phục hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân, lập mưu khởi nghĩa chống Pháp.
Nỗ lực thất bại và Duy Tân bị bắt vào ngày 6 tháng 5 và ngày 3 tháng 11 năm 1916, ông bị quản thúc tại đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) ông tham gia Đồng minh chống phát xít Đức.
Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông qua đời trong một vụ tai nạn máy bay ở Cộng hòa Trung Phi, hưởng thọ 45 tuổi. Ngày 24 tháng 4 năm 1987, thi hài ông được đưa từ Réunion về Việt Nam, sau đó đưa về an táng tại Lăng Dục Đức, Huế bên cạnh lăng vua cha Thành Thái.
Vua Khải Định (1916-1925)
- Niên hiệu: Khải Định (啓定)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹)
- Ngày sinh: Ngày 01 tháng 09 năm Ất Dậu (08/10/1885).
- Ngày mất: Ngày 20 tháng 09 năm Ất Sửu (06/11/1925).
- Thời gian trị vì: 9 năm (1916 – 1925).
Khải Định là một vị vua bị chỉ trích nhiều vì sự nhu nhược trước thực dân Pháp. Ông không có nhiều ảnh hưởng trong chính trị và chủ yếu tập trung vào việc xây dựng các công trình kiến trúc xa hoa, như lăng Khải Định. Tuy nhiên, triều đại của ông cũng ghi dấu sự giao thoa văn hóa với phương Tây, thể hiện qua phong cách kiến trúc và trang phục.
Mặc dù có nhiều câu chuyện về vua Khải Định là người ăn chơi xa xỉ nhưng cũng không thể bỏ qua được những cải cách của ông. Được học hỏi và tiếp thu nhiều kiến thức văn hóa phương Tây nên nhà vua cũng có tư tưởng cũng cởi mở hơn.
Vua Khải Định đã tự thiết kế trang phục kiểu mới và xây dựng điện Kiến Trung, cung An Đinh và cung Ứng Lăng theo phong cách kiến trúc hiện đại. Sự giao thoa văn hóa với người Pháp đã làm cho thẩm mỹ của vua có sự khác biệt so với các vị vua trước.
Vua Bảo Đại (1926-1945)
- Niên hiệu: Bảo Đại (保大)
- Tên thật: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (阮福永瑞)
- Ngày sinh: Ngày 03 tháng 09 năm Quý Sửu (22/10/1913).
- Ngày mất: Ngày 31 tháng 07 năm 1997.
- Thời gian trị vì: 21 năm (1925 – 1945).
Vua Bảo Đại là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Từ năm 1922, Bảo Đại được đưa sang Pháp du học. Năm 1925, vua Khải Định băng hà, Bảo Đại về nước lo tang lễ cho cha và chính thức lên ngôi.
Tuy nhiên, sau đó ông vẫn sống và học tập tại Pháp cho đến năm 1832 thì chính thức trở về nước để trị vì đất nước. Năm 1945 sau cách mạng tháng 8, ngày 30 tháng 8, ông chính thức thoái vị và trao quyền lãnh đạo đất nước cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh.
Ông trở thành cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh. Một năm sau, ông sang Trung Quốc rồi sang sống ở Pháp cho đến năm 1949 thì trở về Việt Nam và trở thành Quốc trưởng của chính phủ Pháp.
Năm 1954, sau hiệp định Genève, ông bị Ngô Đình Điền thay thế và Chiến tranh Việt Nam bắt đầu. Ông chuyển đến sống ở Pháp cho đến cuối đời. Ông mất năm 1997 tại Pháp, hưởng thọ 83 tuổi. Vua Bảo Đại có 8 bà vợ và 12 người con: 5 hoàng tử và 7 công chúa.
Tính từ khi họ Khúc đặt nền móng cho sự tự chủ của nước Việt. Năm 905 cho đến năm 1945 là năm đánh dấu chế độ phong kiến Việt Nam kết thúc là 1.160 năm.
Sự kiện ngày 30 tháng 8 năm 1945 là dấu mốc lớn trong lịch sử dân tộc và cả trong cuộc đời vua Bảo Đại. Người đã quyết định từ bỏ cương vị hoàng đế để trở thành công dân mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Qua hành trình khám phá tiểu sử 13 vị vua nhà Nguyễn, chúng ta không chỉ hiểu thêm về những con người đã đặt nền móng cho một triều đại, mà còn cảm nhận được sức mạnh và sự phức tạp của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này.