Bạn có một câu hỏi?

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào bạn có thể hỏi bên dưới hoặc nhập những gì bạn đang tìm kiếm!

Tiểu sử ông Nguyễn Trãi 

Nguyễn Trãi (1380-1442) là một trong những danh nhân kiệt xuất nhất của lịch sử Việt Nam, không chỉ được biết đến như một nhà chính trị tài ba, mà còn là nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ xuất sắc. Ông đã để lại cho hậu thế một di sản văn học và tư tưởng phong phú, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước.

Nguồn gốc và giáo dục của Nguyễn Trãi

Nguồn gốc và giáo dục của Nguyễn Trãi 1

Nguyễn Trãi, với hiệu Ức Trai, sinh ra tại làng Nhị Khê (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội), là con trai của Nguyễn Phi Khanh – một tiến sĩ cuối thời Trần, và là cháu ngoại của Tư đồ Chương Túc Quốc Thượng hầu Trần Nguyên Đán. 

Theo sách giáo khoa Ngữ văn 10 tại Việt Nam, nguồn gốc gia đình Nguyễn Trãi có thể bắt nguồn từ làng Chi Nhạn, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (hiện nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Dưới triều đại nhà Trần, cha của Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Khanh, cùng với Nguyễn Hán Anh, được Tư đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy cho hai cô con gái của ông, một người tên Thái và người kia tên Thai. 

Theo nhà nghiên cứu sử học hiện đại Trần Huy Liệu, Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái có với nhau năm người con, trong đó Nguyễn Trãi là con cả. Mẹ của Nguyễn Trãi qua đời khi ông mới lên sáu tuổi, và ông đã sống cùng anh em tại nhà ông ngoại Trần Nguyên Đán cho đến khi ông ngoại qua đời vào năm 1390. Sau đó, Nguyễn Phi Khanh phải gánh vác trách nhiệm nuôi dạy các con một mình.

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 2

Thời kì làm quan cho nhà Hồ và quân Minh xâm lược Đại Việt

Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, là một tôn thất và đại thần quan trọng dưới triều Trần. Ông không chống lại Hồ Quý Ly mà thay vào đó đã gửi gắm con cháu mình cho vị quyền thần này. 

Ông đã ký thác con trai mình là Trần Mộng Dữ cho Hồ Quý Ly, và sau đó, Hồ Quý Ly đã gả công chúa cho Mộng Dữ. Khi lên ngôi, Hồ Quý Ly phong Trần Mộng Dữ làm Đông Cung phán thủ, còn hai người em của Mộng Dữ là Trần Thúc Dao và Trần Thúc Quỳnh đều được phong làm tướng quân.

Vào năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, lập ra nhà Hồ. Cùng năm đó, nhà Hồ tổ chức kỳ thi Nho học, và Nguyễn Trãi đã tham gia và đỗ Thái học sinh. Sau kỳ thi, ông được bổ nhiệm làm Chính chưởng Ngự sử đài. Cha của ông, Nguyễn Phi Khanh, cũng được Hồ Hán Thương bổ nhiệm làm Hàn lâm viện học sĩ vào năm 1401.

Anh em bên ngoại của Nguyễn Trãi, bao gồm Trần Thúc Dao và Trần Nhật Chiêu, cũng đầu hàng quân Minh và được phong tước, cho giữ đất Diễn Châu. Tuy nhiên, đến năm 1408, khi nhà Hậu Trần nổi dậy chống quân Minh, Trần Thúc Dao và Trần Nhật Chiêu cùng 600 người khác đã bị giết khi quân Hậu Trần tiến đến Nghệ An.

Mười năm phiêu dạt

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 3

Cuộc đời của Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 cho đến khi ông gặp gỡ Lê Lợi tại Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn nhiều điều chưa được làm sáng tỏ. Hiện tại, không có tài liệu chính xác và đầy đủ nào ghi lại chi tiết về giai đoạn này của ông. 

Sử sách cũng chỉ ghi chép một cách sơ lược và không thống nhất, trong khi chính Nguyễn Trãi cũng không để lại những ghi chép cụ thể nào. Trong một số tác phẩm văn học của mình, Nguyễn Trãi nhắc đến “thập niên phiêu chuyển” (mười năm phiêu dạt), ám chỉ khoảng thời gian đầy sóng gió này, nhng con số mười năm có lẽ chỉ mang tính tượng trưng.

Nguyễn Lương Bích trong sách “Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước” dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi và các ghi chép của Lê Quý Đôn và Phạm Đình Hổ, cho rằng sau khi nhà Hồ thất bại, Nguyễn Trãi đã rút lui để tránh sự truy đuổi của quân Minh, thay vì bị bắt. 

Ông đã ẩn náu tại Côn Sơn và sau đó còn đi nhiều nơi khác. Theo Nguyễn Lương Bích, trong giai đoạn này, tư tưởng chính trị, quân sự và triết học của Nguyễn Trãi đã được củng cố và phát triển, dựa trên thực tiễn cuộc sống và kinh nghiệm chiến đấu qua các thời đại, đồng thời lấy cảm hứng từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược.

Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 4

Yết kiến ở Lỗi Giang

Các tài liệu như Lịch triều hiến chương loại chí, Ức Trai thi tập, bài thơ Minh Lương của Lê Thánh Tông, Chế văn của vua Tương Dực Đế, Kiến văn tiểu lục, Việt sử thông giám cương mục, Sơn Nam lịch triều đăng khoa khảo và Lịch triều đăng khoa bi khảo đều ghi nhận rằng Nguyễn Trãi đã gặp Lê Lợi tại Lỗi Giang, nhưng không nêu rõ năm cụ thể

Mặc dù các sách sử như Đại Việt sử ký toàn thư và Lam Sơn thực lục không ghi chép cụ thể về cuộc gặp gỡ này, nhưng một số nhà nghiên cứu hiện đại đã trích dẫn từ sách Toàn việt thi lục của Lê Quý Đôn, cho rằng Nguyễn Trãi đã trao cho Lê Lợi Bình Ngô sách với ba kế sách đánh quân Minh, tập trung vào chiến lược “tâm công,” đánh vào lòng người để đạt được chiến thắng.  Sau khi xem qua Bình Ngô sách, Lê Lợi đã phong Nguyễn Trãi chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn lâm viện và giao cho ông nhiệm vụ bàn bạc việc quân sự ngày đêm.

Tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 5

Các sử gia Trần Huy Liệu và Nguyễn Lương Bích đã sử dụng cuốn Tang thương ngẫu lục—một tác phẩm mang tính truyền kỳ trong dân gian—làm nguồn tư liệu nghiên cứu. Theo cuốn sách này, Nguyễn Trãi đã đề xuất một kế hoạch nhằm nâng cao thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. 

Tại đây, Nguyễn Trãi đã soạn thảo hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan để chiêu dụ Vương Thông, gửi thư đến Nghệ An để chiêu dụ Thái Phúc, và cũng dụ hàng các tướng Minh tại Tân Bình, Thuận Hóa, cùng nhiều thành khác. Nhờ những nỗ lực này, các thành Nghệ An, Tân Bình, và Thuận Hóa đã đầu hàng vào đầu năm 1427. 

Nguyễn Trãi cũng đã đích thân cùng một viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ Lưu Thanh phải đầu hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông còn dẫn đầu các cuộc dụ hàng thành Đông Quan năm lần, góp phần nhanh chóng cô lập quân Minh tại Giao Chỉ, chỉ còn giữ được một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, và Tây Đô.

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 6

Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông ra lệnh điều binh để cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân từ Quảng Tây và Mộc Thạnh dẫn 5 vạn quân từ Vân Nam tiến sang Việt Nam. Tuy nhiên, trong trận Chi Lăng – Xương Giang, quân Lam Sơn đã tiêu diệt toàn bộ hai đạo viện binh của nhà Minh, gồm hơn 10 vạn quân.

Tháng 11 năm 1427, Vương Thông và nội quan Sơn Thọ của nhà Minh gửi thư giảng hòa, xin mở đường rút quân. Lê Lợi đồng ý, thậm chí còn gửi tặng thổ sản và hải sản. 

Một số tướng sĩ khuyên Lê Lợi nên tấn công Đông Quan để trả thù quân Minh, nhưng Nguyễn Trãi có quan điểm khác. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại rằng Nguyễn Trãi, sau khi đọc thư của Vương Thông gửi về nước, đã nhận ra sự yếu thế của quân Minh và chủ trương hòa giải. Lê Lợi đã nghe theo và cho quân rút vây.

Cuối cùng, khi quân Minh rút về nước, một số tướng muốn đánh thêm một trận để ngăn quân Minh trở lại, nhưng Lê Lợi từ chối. Đến năm 1428, nhà Hậu Lê chính thức hình thành.

Phong thưởng

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 7

Vua Lê Thái Tổ đã thực hiện hai đợt phong thưởng lớn. Đợt đầu tiên diễn ra vào tháng 2 năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), dành cho 121 người thuộc nhóm Hỏa thủ và quân nhân Thiết đột tại Lũng Nhai. Đợt thứ hai diễn ra vào tháng 5 năm Thuận Thiên thứ hai (1429), khi vua ban biển ngạch công thần cho 93 viên quan, trong đó có tên của Nguyễn Trãi.

Năm 1429, vua Lê Thái Tổ tiếp tục cho khắc biển công thần, và Nguyễn Trãi được phong tước Á hầu, thuộc bậc thứ sáu trong chín bậc phong thưởng. Các bậc phong thưởng bao gồm: Huyện thượng hầu (bậc nhất), Á thượng hầu (bậc hai), Hương thượng hầu (bậc ba), Đình thượng hầu (bậc tư), Huyện hầu (bậc năm), Á hầu (bậc sáu), Quan nội hầu (bậc bảy), Quan phục hầu (bậc tám), và Trước phục hầu (bậc chín).

Triều vua Lê Thái Tông

Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông đã bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong đó có Nguyễn Trãi. Đến năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua tác phẩm Dư địa chí, trong đó ghi chép chi tiết về bờ cõi và hành chính của nước Đại Việt thời bấy giờ.

Vào tháng 5 năm 1434, khi giữ chức Hành khiển, Nguyễn Trãi soạn thảo một tờ tâu để Nguyễn Tông Trụ mang sang trình lên vua Minh. Tờ tâu này gặp phải sự phản đối từ Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ, Học sĩ Lê Cảnh Xước, Đại Tư đồ Lê Sát, và Đô đốc Phạm Vấn, nhưng Nguyễn Trãi kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình. 

Trong vụ án xử lý bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, Nguyễn Trãi đã có tranh luận với Lê Sát và Lê Ngân về cách xử lý. Ông khuyên Lê Thái Tông nên hành động theo tinh thần nhân nghĩa, cho rằng “Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa”. Tuy nhiên, khi được yêu cầu dùng nhân nghĩa để cảm hóa kẻ trộm, ông từ chối. Cuối cùng, hai tên trộm bị xử tử, trong khi những kẻ còn lại bị đày.

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 8

Trước đó, Lê Thái Tổ đã giao cho Nguyễn Trãi nhiệm vụ định ra quy chế mũ áo, nhưng chưa kịp thực hiện. Đến tháng 2 năm 1437, Lê Thái Tông lại giao cho Nguyễn Trãi và Lương Đăng sửa đổi nhã nhạc và quy chế lễ nghi trong triều đình. Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu, được vua khen ngợi và chấp thuận. 

Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1437, Lương Đăng dâng sớ với những ý kiến khác biệt về quy chế nhạc cụ, và vua đã lựa chọn theo đề xuất của Lương Đăng. Điều này khiến Nguyễn Trãi xin trả lại công việc đã được giao. Đến tháng 11 năm 1437, vua Lê Thái Tông ban hành các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định. 

Chức danh và tước hiệu đầy đủ của Nguyễn Trãi khi đó là: Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển, Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự, Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự, Á đại trí tự, và tứ quốc tính Lê Trãi.

Vụ án Lệ Chi Viên

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 9

Vào tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông thực hiện chuyến tuần du đến miền Đông. Ngày 1 tháng 9, sau khi duyệt binh tại thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đã đón vua lên thuyền để đến thăm chùa Côn Sơn. Trên đường trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Đến ngày 7 tháng 9 năm 1442, khi thuyền về đến Lệ Chi Viên, vua đột ngột lâm bệnh và thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ. Sáng hôm sau, vua đã qua đời. 

Các quan trong triều giữ kín sự việc này và chỉ phát tang khi đoàn thuyền trở về đến Đông Kinh vào nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442. Triều đình sau đó đã buộc tội Nguyễn Thị Lộ và bắt giữ bà cùng Nguyễn Trãi, kết án họ tội giết vua. Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi bị xử tử cùng với toàn bộ gia quyến, gọi là tru di tam tộc.

Di lụy và hồi phục

Sau khi Nguyễn Trãi qua đời, hầu hết các tác phẩm thơ văn và trước tác của ông đều bị hủy diệt. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt ra lệnh tiêu hủy vào năm 1447. Nhiều tác phẩm của ông như Luật thư, Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ cũng đã bị mất vĩnh viễn. 

Theo gia phả của họ Nguyễn tại Chi Ngãi, phường Cộng Hòa (Chí Linh), Phương Quất (Kim Môn), và Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội), Nguyễn Trãi có 5 người vợ và 7 người con. Vợ cả là bà Trần Thị Thành, sinh ba người con: Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, và Nguyễn Phù (hay còn gọi là Nguyễn Hồng Quý hoặc Hồng Quỳ). 

Vợ thứ hai họ Phùng (quê ở xã Nguyệt Áng, Thanh Trì, Hà Nội) có ba người con là Nguyễn Thị Trà, Nguyễn Bản, và Nguyễn Tích. Vợ thứ ba, bà Nguyễn Thị Lộ (quê ở Hưng Hà, Thái Bình), không có con. Vợ thứ tư, bà Phạm Thị Mẫn (quê ở làng Nỗ Vệ, Thụy Phú, Phú Xuyên, Hà Nội), sinh một người con là Nguyễn Anh Vũ. Vợ thứ năm, bà Lê Thị phu nhân (người làng Chi Ngãi, phường Cộng Hòa, Chí Linh), sinh một người con là Nguyễn Năng Đoán.

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 10

Khi biến cố Lệ Chi Viên xảy ra, nhiều người trong gia đình và họ hàng của Nguyễn Trãi bị hành hình, một số khác lánh nạn để trốn tránh. Dựa trên các gia phả và kết quả khảo sát thực tế tại các chi họ Nguyễn, bước đầu đã xác định rằng một số người trong gia đình Nguyễn Trãi còn sống sót. 

Ngoài một số anh em của ông, gia phả ghi lại rằng hai trong số năm người vợ của Nguyễn Trãi, bà Phạm Thị Mẫn và bà Lê Thị Phu Nhân, đã thoát nạn. Trong số 7 người con của Nguyễn Trãi, ba người con trai và một người con gái đã sống sót sau vụ án Lệ Chi Viên. 

Nguyễn Anh Vũ, sau khi đỗ Hương cống, được bổ nhiệm làm Tri huyện. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm các di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi. Đến ngày 8 tháng 8 năm 1512, sau 70 năm kể từ khi Nguyễn Trãi gặp nạn, vua Lê Tương Dực truy tặng ông tước Tế Văn hầu, tước vị tương đương với thời kỳ sinh thời của ông. Văn bản truy tặng có câu: “Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế.”

Dịch nghĩa: “Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau.”

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi 11

Gia đình Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi có 5 người vợ và 7 người con trai, bao gồm:

Vợ

  • Bà Trần Thị Thành
  • Bà Phùng Thị
  • Bà Lê Thị
  • Bà Nguyễn Thị Lộ
  • Bà Phạm Trí Mẫn
  • Bà Đậu Minh Trí

Con

  • Nguyễn Ứng (con của bà Trần Thị Thành)
  • Nguyễn Phù (con của bà Trần Thị Thành)
  • Nguyễn Bảng (con của bà Phùng Thị)
  • Nguyễn Tích (con của bà Phùng Thị)
  • Nguyễn Anh Vũ (con của bà Phạm Trí Mẫn)
  • Người con tổ chi họ Nguyễn tại Quế Lĩnh, Phương Quất, huyện Kinh Môn, Hải Dương (con của bà Lê Thị)

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi 12

Sau khi Lê Lợi giành lại độc lập, ông ra lệnh thu thập lại các sách vở còn sót lại, với sự hỗ trợ của các danh nho như Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên, và Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, do hậu quả của chiến tranh, phần lớn sách vở đã bị mất, chỉ còn lại khoảng 3-4 phần so với trước, và Lê Quý Đôn đã thống kê chi tiết trong Đại Việt thông sử. Trong thời hiện đại, khi biên soạn sách, các tác giả như Nguyễn Hữu Sơn và Phan Huy Lê không có căn cứ rõ ràng khi cho rằng sau vụ Lệ Chi Viên, Đinh Liệt đã ra lệnh hủy các tác phẩm của Nguyễn Trãi như Luật thư, Dư địa chí, Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ…

Văn chính luận

Quân trung từ mệnh tập là một tập sách gồm các văn thư mà Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, cùng với văn răn tướng sĩ, từ năm 1423 đến năm 1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho các tướng nhà Minh. Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm nổi tiếng, nhưng Đại Việt sử ký toàn thư không ghi rõ ai là tác giả của bài cáo này. Một số bài chiếu, biểu khác cũng được viết trong thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông (1433-1442).

Lịch sử

Lam Sơn thực lục là một tác phẩm lịch sử ghi chép về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài 10 năm, được Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Tác giả của tác phẩm này vẫn còn là một dấu hỏi, dù nhiều người cho rằng đó là Nguyễn Trãi, nhưng điều này vẫn chỉ là phỏng đoán.

Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433, là bài văn bia tại lăng mộ vua Lê Thái Tổ, kể lại cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Địa lý

Dư địa chí, còn gọi là Ức Trai di tập Nam Việt dư địa chí, Đại Việt địa dư chí, An Nam vũ cống, Nam Quốc vũ cống hoặc Lê triều cống pháp, là một tác phẩm địa lý quan trọng.

Thơ phú

Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng. Theo Lê Quý Đôn, tập thơ này gồm 3 quyển, do Nguyễn Trãi soạn và Trần Khắc Kiệm biên tập.

Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài, chia làm 4 mục: Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), và Cầm thú môn (7 bài). Theo Trần Huy Liệu, đây là tập thơ Nôm cổ nhất của Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi đã đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam.

Chí Linh sơn phú là một bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422.

Băng Hồ di sự lục là một thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi viết vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán.

Luật thư, gồm 6 quyển, nay đã thất lạc, được Nguyễn Trãi soạn vào khoảng năm 1440-1441.

Nhận định

Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục có những nhận định về Nguyễn Trãi như sau:

Theo nhận định của sử quan: Nguyễn Trãi đã giúp Lê Thái Tổ khai quốc, rồi tiếp tục giúp Lê Thái Tông. Tài trí, phép tắc, mưu mô, và đạo đức của ông đều vượt trội hơn hết so với mọi người thời bấy giờ.

Theo lời phê của Tự Đức: Trong triều Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Nếu Nguyễn Trãi thực sự là người hiền tài, ông nên sớm rút lui và ẩn náu để giữ gìn danh tiếng. Thế nhưng ông lại đón tiếp ngự giá và để vợ mình làm những việc không đứng đắn. Vì vậy, việc ông bị tru di tam tộc cũng là tự chuốc lấy.

Theo Lê Quý Đôn khi xem các cáo sắc của Nguyễn Trãi: “Đấy là phường loạn thần tặc tử, còn cáo sắc làm gì.”

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi 13

Về văn chương Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi được coi là một nhà văn chính luận kiệt xuất, với nhiều tác phẩm để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Đời sau, nhiều nhân vật lịch sử đã dành những lời ca ngợi đặc biệt cho văn chương của ông:

  • Nguyễn Mộng Tuân xem ông là “bậc văn bá.”
  • Lê Quý Đôn đánh giá ông là “văn thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời.”
  • Tô Thế Nghi ca ngợi ông như “sông Giang, sông Hán trong các sông và sao Ngưu, sao Đẩu trong các sao.”
  • Phạm Đình Hổ nhận xét văn chương của Nguyễn Trãi “có khí lực dồi dào… đọc không chán miệng.”
  • Theo Dương Bá Cung, văn của Nguyễn Trãi “rõ ràng và sang sảng trong khoảng trời đất.”
  • Phan Huy Chú cho rằng “văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế.”
  • Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi “đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường.”

Những tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi nổi bật với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương để phục vụ cho mục đích chính trị và xã hội. Chúng thể hiện lý tưởng chính trị – xã hội cao nhất trong thời kỳ phong kiến Việt Nam. Ngoài ra, những tác phẩm này còn phản ánh tinh thần dân tộc đã trưởng thành, được xem là một thành tựu quan trọng trong lịch sử tư tưởng và văn học Việt Nam.

Tưởng niệm và vinh danh Nguyễn Trãi

Sự kiện và đền thờ

Năm 1956, Bộ Văn hóa của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần đầu tiên tổ chức lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân dịp 514 năm ngày mất của ông. Tiếp theo đó, vào các năm 1962 và 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục kỷ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962. 

Nghệ thuật trang trí của đền mô phỏng phong cách thời Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận là Di tích nghệ thuật kiến trúc vào năm 2003. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ còn được thờ tại làng Khuyến Lương (nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai) và tại xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Hình ảnh trong văn hóa

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật, bao gồm:

  • Kịch “Bí Mật Vườn Lệ Chi” (tác giả: Hoàng Hữu Đản, đạo diễn: Nghệ sĩ ưu tú Thành Lộc)
  • Kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” (tác giả: Nguyễn Đình Thi)
  • Kịch “Đêm của bóng tối” (tác giả: Lê Chí Trung)
  • Tiểu thuyết “Vạn xuân” (tác giả: Yveline Feray)
  • Thơ “Đêm Côn Sơn” (tác giả: Trần Đăng Khoa)
  • Tiểu thuyết “Nguyễn Trãi” (tác giả: Bùi Anh Tấn)
  • Phim “Thiên mệnh anh hùng” (dựa theo tiểu thuyết “Nguyễn Trãi – quyển 2: Bức huyết thư,” đạo diễn: Victor Vũ)

Nguyễn Trãi là một trong những nhân vật vĩ đại và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Việt Nam. Tài năng, lòng yêu nước, và tư tưởng nhân nghĩa của ông đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lòng dân tộc qua các tác phẩm văn chương, tư tưởng chính trị, và những đóng góp to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. 

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi 14

Dù cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, và những di sản của ông từng bị hủy diệt, nhưng hình ảnh và giá trị mà Nguyễn Trãi mang lại vẫn sống mãi, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ sau. Hy vọng rằng, qua những thông tin đã được chia sẻ, bạn đã có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, cũng như nhận thức rõ hơn về những đóng góp quý báu của ông đối với lịch sử và văn hóa Việt Nam.