Tiểu sử ông Hoàng Văn Thụ
Hoàng Văn Thụ (1909 – 1944) là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của phong trào cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sinh ra tại làng Phạc Lạn, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, ông sớm được nuôi dưỡng trong tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng.
Tiểu sử Hoàng Văn Thụ
Hoàng Văn Thụ, một người dân tộc Tày, sinh ngày 4 tháng 11 năm 1906 tại xóm Phạc Lạng, xã Nhân Lý, châu Điềm He, huyện Văn Uyên (nay thuộc xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng), tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.
Về xuất thân của ông, có những tài liệu ghi chép khác nhau. Theo Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông sinh ra trong một gia đình nông dân, cha là ông giáo làng Hoàng Khải Lan. Tuy nhiên, một số tài liệu khác cho rằng ông xuất thân từ một gia đình quan lại, với cha là tri phủ. Tên thật của ông là Hoàng Đình Hưng.
Hoàng Văn Thụ thoát ly theo cách mạng
Theo tài liệu từ Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hoàng Văn Thụ từ nhỏ đã được học cả chữ Hán và chữ quốc ngữ. Năm 14 tuổi (1920), sau khi đậu sơ học yếu lược, ông tiếp tục ra thị xã Lạng Sơn để học tiếp.
Tại Lạng Sơn, Hoàng Văn Thụ đã gặp gỡ và kết bạn với Hoàng Đình Giong và Lương Văn Tri, những người sau này trở thành đồng chí thân thiết của ông trong phong trào cách mạng. Năm 1926, sau lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh, ông cùng Lương Văn Tri đã thành lập nhóm thanh niên yêu nước tại Lạng Sơn.
Cuối năm 1927, ông cùng Lương Văn Tri sang Bản Đáy, Quảng Tây (Trung Quốc) để tham gia các lớp huấn luyện chính trị do Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tổ chức. Tuy nhiên, ngay khi vừa đến nơi, ông đã bị đặc vụ vây bắt.
Hoàng Văn Thụ may mắn chạy thoát về Long Châu, và dù trải qua nhiều khó khăn, gian khổ để kiếm sống và hoạt động, thậm chí phải đóng giả người “bán thuốc cao” và có lúc phải đi xin ăn, ông vẫn kiên trì và tận tụy trong các hoạt động đấu tranh cách mạng.
Gây dựng cơ sở trong nước từ nước ngoài
Năm 1930, Hoàng Văn Thụ được người quen giới thiệu vào học nghề và làm việc tại xưởng cơ khí Nam Hưng, một xí nghiệp do một số nhà cách mạng Việt Nam lập ra. Xí nghiệp này không chỉ là cơ sở liên lạc và nơi hội họp mà còn là nguồn kinh phí cho các hoạt động cách mạng.
Tại đây, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập, gồm ba người: Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Roong và Hoàng Vĩnh Tuy, với Hoàng Đình Roong làm bí thư chi bộ. Từ chi bộ ba người, tổ chức đã phát triển thành Ban Liên tỉnh ủy Cao – Lạng, trong đó Hoàng Văn Thụ được phân công phụ trách Lạng Sơn. Sau đó, ông rời xưởng Nam Hưng về Long Châu, xây dựng cơ sở ở Lũng Nghìu làm nơi liên lạc với các nhà cách mạng tại Việt Nam.
Năm 1930, ông đã thành lập được ba tổ quần chúng tại các xóm Ma Mèo, Tà Lài (huyện Văn Uyên), và đến năm 1931, ông mở rộng tổ chức ra các địa phương như Khơ Đa, Na Sầm, Đồng Đăng, Kỳ Lừa, Thất Khê.
Đến năm 1932, ông đã đưa hoạt động cách mạng về xã Nhân Lý, quê hương của mình. Những người được ông vận động thường được tập hợp tại hang Áng Cúm (gần Lũng Nghìu) để huấn luyện trước khi trở về phát triển tổ chức trong nước.
Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong trở về nước hoạt động. Khi đến Long Châu, Lê Hồng Phong đã liên lạc với Ban Liên tỉnh ủy Cao – Lạng và gặp Hoàng Văn Thụ.
Dưới sự giúp đỡ của Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Thụ đã học tập chủ nghĩa Marx – Lenin và trở thành trợ bút cho tờ báo Châu Giang để cải thiện kỹ năng tiếng Hán của mình. Nhờ vốn tiếng Hán, ông đã tiếp cận nhiều tác phẩm của Mao Trạch Đông. Khi Ban Chỉ huy Hải ngoại được thành lập, Hoàng Văn Thụ trở thành một trong những trợ thủ đắc lực, chắp nối liên lạc với các cơ sở trong nước.
Cuối năm 1934, Hoàng Văn Thụ cùng các đảng viên trong Ban Liên tỉnh ủy lâm thời họp và được đề cử làm đại biểu đi dự Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1935, sau khi dự đại hội, ông trở về nước tiếp tục hoạt động cách mạng.
Bí thư xứ ủy Bắc Kỳ
Năm 1930, Hoàng Văn Thụ trở về Việt Bắc và trở thành chủ bút báo “Tranh đấu” tại miền thượng du, đồng thời gây dựng cơ sở đảng ở Võ Nhai và Bắc Sơn. Chính tại đây, Chi bộ ghép được thành lập với sự tham gia của các đồng chí như Chu Văn Tấn và Nông Văn Cún, những người sau này đóng vai trò quan trọng trong Khởi nghĩa Bắc Sơn.
Trong giai đoạn 1936-1939, thời kỳ Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương, Hoàng Văn Thụ đã sang Trung Quốc để in các văn kiện đại hội Đảng và trở về Cao Bằng để lãnh đạo phong trào bình dân, viết báo Lao động. Tuy nhiên, do bị theo dõi gắt gao bởi thực dân Pháp, ông buộc phải trốn sang Hương Cảng.
Giữa năm 1938, ông được Lê Hồng Phong giao nhiệm vụ trở về gặp Xứ ủy Bắc Kỳ tại Hà Nội để truyền đạt chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát xít ở Đông Dương. Sau đó, Hoàng Văn Thụ được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, cùng với Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt. Ông cũng được cử ra Hòn Gai và Uông Bí để củng cố cơ sở Đảng.
Đầu năm 1939, ông tham dự hội nghị Xứ ủy mở rộng do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ triệu tập tại Vạn Phúc (Hà Đông) và được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Trong thời gian hoạt động tại Hà Đông, ông liên tục phải cải trang và di chuyển để tránh bị lộ, đồng thời vận động nhiều người dân tham gia, ủng hộ cách mạng. Ông cũng được biết đến với những cái tên như “đồng chí Bảy” và “anh Lý.”
Ngoài công việc Xứ ủy, Hoàng Văn Thụ còn trực tiếp phụ trách Thành ủy Hà Nội. Mặc dù Thành ủy liên tục bị phá do nội phản, ông đã khôi phục lại tổ chức này đến 10 lần trong giai đoạn 1939-1943.
Tháng 11 năm 1940, tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 7 diễn ra tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), Hoàng Văn Thụ cùng Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trong bối cảnh Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp tăng cường đàn áp, hàng ngàn đảng viên Cộng sản bị bắt giam, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương rút vào hoạt động bí mật, và Hoàng Văn Thụ cùng Trường Chinh phải đi nhiều tỉnh để chắp nối, hoạt động trong hoàn cảnh cực kỳ thiếu thốn và gian khổ.
Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, dẫn đến việc thành lập Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chỉ huy. Hoàng Văn Thụ cùng Trường Chinh và Trần Đăng Ninh đã lên Lạng Sơn chỉ đạo để bảo toàn lực lượng của Cứu quốc quân.
Đầu năm 1941, ông được cử sang Tịnh Tây (Trung Quốc) dự đại hội các đoàn thể cách mạng Việt Nam để bàn về việc thống nhất các lực lượng cách mạng trong và ngoài nước. Tại đây, ông đã gặp Nguyễn Ái Quốc và nhận trách nhiệm cùng Tỉnh ủy Cao Bằng đón Nguyễn Ái Quốc về nước.
Tháng 4 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc từ Vân Nam qua Quảng Tây về Cao Bằng và ở tại hang Pắc Bó. Hoàng Văn Thụ cùng Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Chu Văn Tấn đã từ Việt Nam sang Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) rồi quay về Cao Bằng.
Tại Pắc Bó, tháng 5 năm 1941, ông cùng đoàn đại biểu Xứ ủy Bắc Kỳ dự Hội nghị Trung ương lần thứ VIII và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Ông cũng được phân công làm Bí thư Tổng bộ Việt Minh và Thường vụ Trung ương phụ trách binh vận.
Khi Mặt trận Việt Minh ra đời, phong trào chống Pháp-Nhật dâng cao, Hoàng Văn Thụ cùng với Tổng Bí thư Trường Chinh đã tích cực xây dựng căn cứ ở Việt Bắc và đẩy mạnh phong trào ở các tỉnh. Ông hoạt động binh vận ở Hà Nội, nhưng do bị chỉ điểm, ông bị bắt vào tháng 8 năm 1943 tại ngõ Nam Diệm, khu Tám Mái.
Trong lao ngục
Tại nhà tù Hỏa Lò, nơi giam giữ và tra tấn nhiều nhà cách mạng lớn của đất nước, Hoàng Văn Thụ đã trải qua những ngày cuối cùng của cuộc đời cùng với nhiều chí sĩ nổi tiếng như Trần Đăng Ninh, Đỗ Mười, Lê Tất Đắc, Tô Quang Đẩu, Tạ Quốc Bảo, Bùi Lâm, Đào Duy Kỳ, Đồng Khắc Thọ, Hoàng Ngân, và nhiều người khác.
Trong nhà lao thực dân Pháp, ông đã truyền thụ nhiều lý luận cách mạng và nêu cao tinh thần bất khuất cho các đồng đội. Hoàng Văn Thụ đã mở các cuộc tranh luận với các thủ lĩnh Đảng Đại Việt, khiến họ nhận ra chủ trương đúng đắn của Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp – Nhật do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Ông cũng tranh thủ cảm hóa các giám ngục và binh lính, khiến nhiều người trong tù rất kính phục ông.
Biết trước mình sẽ bị xử bắn, ông thường nhường những phần ăn ít ỏi của mình cho các bạn tù và nói: “Các anh ăn đi để còn lấy sức chiến đấu, tôi bây giờ ăn vào cũng chỉ nuôi cây thôi.” Nhiều người cảm động trước tấm lòng của ông, dù tất nhiên không ai nỡ nhận của ông. (Hồi ký Tạ Quốc Bảo)
Hoàng Văn Thụ đã trải qua nhiều trận tra tấn rất nặng. Theo tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông đã phải chịu hơn 20 trận tra tấn, có những trận kéo dài từ 9 giờ đêm tới 3 giờ sáng.
Tuy nhiên, thực dân Pháp không thể khuất phục được ông. Trong thời gian bị tra tấn, ông vẫn ôn tồn thuyết phục, tuyên truyền cho sự hợp tác giữa những người Pháp và người Đông Dương trong việc chống lại phát xít Nhật.
Tháng 1 năm 1944, ông bị kết án tử hình. Việc Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Văn Thụ bị xử bắn đã gây tác động rất lớn đến phong trào đấu tranh cách mạng lúc bấy giờ.
Ra pháp trường
Sáng ngày 25 tháng 4 năm 1944, thực dân Pháp đã mang Hoàng Văn Thụ ra xử bắn. Ông bình thản tiến ra pháp trường Tương Mai. Khi giám thị hỏi liệu ông có cần bịt mắt hay không, ông thẳng thắn trả lời không cần.
Khi được hỏi có lời cuối cùng nào muốn nói, ông nói:
“Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa chúng tôi, những người mất nước, và các ông, những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là điều tất yếu. Chỉ biết rằng cuối cùng, chúng tôi sẽ chiến thắng.”
Khi cha cố đề nghị làm lễ rửa tội, ông đáp:
“Cảm ơn ông, tôi không có tội gì. Nếu yêu nước, cứu nước là có tội, thì những người Pháp hiện đang đấu tranh chống phát xít Đức bên nước ông đều có tội cả. Ông hãy về hỏi xem họ có tội không?”
Viên giám thị chứng kiến đã phải thốt lên: “Thật là một người cộng sản gang thép.”
Hoàng Văn Thụ bị xử bắn lúc 6 giờ sáng, ở tuổi 38. Hài cốt của ông sau đó được đưa về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Cuộc sống đời tư của Hoàng Văn Thụ
Đời tư của Hoàng Văn Thụ được ghi nhận không thống nhất trong các tài liệu lịch sử, một phần do xuất thân của ông cũng được mô tả khác nhau. Bài thơ “Đoạn tuyệt” của ông (xem bên dưới) có hai luồng ý kiến khác nhau: một cho rằng bài thơ là bức thư trả lời cha ruột ông, người đã từng làm tri phủ và hợp tác với Pháp; trong khi ý kiến khác lại cho rằng bài thơ này được gửi cho cha vợ ông là đội Hiển, và rằng cha ruột của Hoàng Văn Thụ chỉ là một nông dân.
Một số tài liệu ghi rằng ông sinh năm 1909. Tuy nhiên, trong hồi ký “Những ngày cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ” do Trần Đăng Ninh, người cùng bị giam tại Hỏa Lò với ông, viết và xuất bản năm 1959, có đoạn ghi lại lời ông nói vào năm 1944: “Năm nay tôi 38 tuổi…”. Điều này cho thấy ông sinh năm 1906.
Một số tài liệu, trong đó có tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Hà Đông (xuất bản năm 1964), còn ghi nhận rằng giữa Hoàng Văn Thụ và bà Hoàng Ngân, một lãnh tụ của phong trào phụ nữ Việt Nam, ngoài tình đồng chí còn có tình yêu.
Cũng có nhiều tài liệu khác cho biết, trước khi cả hai bị bắt và giam tại nhà tù Hỏa Lò, gia đình đã tổ chức lễ đính hôn. Sau khi Hoàng Văn Thụ qua đời, bà Hoàng Ngân vẫn luôn tự nhận mình là vợ của ông.
Nhà thơ cách mạng
Hoàng Văn Thụ đã sáng tác nhiều bài thơ cách mạng bằng cả tiếng Tày, tiếng Nùng, tiếng Sli và tiếng Việt, tất cả đều thấm đẫm tinh thần thi ca cổ điển của dân tộc, thể hiện rõ ràng ý chí và tâm tư của ông qua từng câu chữ.
Đoạn tuyệt
Theo một số tài liệu, trước khi Hoàng Văn Thụ bước vào con đường cách mạng, ông đã được cha mẹ gả cưới cho Nông Thị Bay, con gái của ông Đội Hiển, một võ quan sơ cấp của Pháp. Khi ông Hiển nhiều lần viết thư khuyên nhủ Hoàng Văn Thụ quay về hợp tác với Pháp, ông đã viết bài thơ nổi tiếng “Đoạn tuyệt” vào năm 1940 để đáp lại:
Đọc mấy lời trong thư cha dụ dỗ
Dòng lệ con hoen ố mảnh nhung y
Nhớ ngày nào con cất bước ra đi
Trong trí dũng con ghi đầy kiêu hãnh!
Kìa lưỡi kiếm máu quân thù còn dính
Mà anh hùng tim lạnh bả hư vinh
Trong phong ba vùng vẫy bóng ngạc kình
Tham mồi béo nên nộp mình cho ngư phủ…
Tưởng nhớ Hoàng Văn Thụ
Mặc dù thời gian hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ không kéo dài, nhưng ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ sở của Trung ương Đảng trong giai đoạn bị chính quyền thực dân khủng bố khốc liệt nhất trước Cách mạng tháng Tám. Chính vì vậy, tên ông đã được ghi danh trên bảng công lao của Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.
Hoàng Văn Thụ được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng danh hiệu anh hùng, liệt sĩ. Ban đầu, ông được an táng tại pháp trường Tương Mai, sau đó hài cốt được đưa về Nghĩa trang Mai Dịch. Tại Tương Mai, chính quyền đã xây dựng một mộ gió và dựng tượng đài để vinh danh ông.
Liệt sĩ Hoàng Ngân, người được xem là vợ của ông, sau khi qua đời cũng được Nhà nước an táng bên cạnh ông tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Quê hương của ông, xã Nhân Lý, đã được đổi tên thành xã Hoàng Văn Thụ để tôn vinh ông. Tại Hà Nội, có phường Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hoàng Mai và phố Hoàng Văn Thụ thuộc phường Quán Thánh, quận Ba Đình. Nhiều thành phố và trường học ở Việt Nam cũng mang tên ông, và một số nơi còn có khu tưởng niệm và tượng đài vinh danh ông.
Tại thành phố Thái Nguyên, nơi ông từng hoạt động cách mạng, cũng có một phường và một con đường mang tên ông.
Hoàng Văn Thụ được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là một trong những danh hiệu cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam dành cho những người có công lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc. Với những đóng góp và sự hy sinh to lớn cho cách mạng, tên tuổi của ông đã được ghi danh vĩnh viễn trong lịch sử Việt Nam.
Chúng ta đã cùng nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng Văn Thụ, một người anh hùng kiên trung, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Những đóng góp to lớn của ông trong công cuộc đấu tranh giành độc lập đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử đất nước.
Hoàng Văn Thụ không chỉ là biểu tượng của lòng yêu nước, mà còn là tấm gương sáng ngời về tinh thần cống hiến và hy sinh vì lý tưởng cao đẹp. Hy vọng rằng qua bài viết này, chúng ta càng hiểu thêm và trân trọng những giá trị mà ông đã để lại.