Tiểu sử nhà văn, nhà thơ Nam Cao
Nam Cao (1915-1951) là một trong những nhà văn, nhà thơ hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với bút danh độc đáo và phong cách viết sâu sắc, Nam Cao đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc qua những tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội đầy châm biếm và giàu tính nhân văn. Ông không chỉ là một cây bút hiện thực xuất sắc mà còn là một nhà tư tưởng với những quan niệm sâu sắc về con người và xã hội.
Tiểu sử Nam Cao
Nam Cao, tên khai sinh là Trần Hữu Tri (một số tài liệu ghi là Trần Hữu Trí), sinh ngày 29 tháng 10 năm 1915, nhưng trong giấy khai sinh lại ghi năm 1917. Quê hương của ông tại làng Đại Hoàng, thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (hiện nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Bút danh Nam Cao của ông được ghép từ hai chữ đầu tiên của tên tổng và huyện nơi ông sinh ra.
Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo tại nông thôn. Cha ông, Trần Hữu Huệ, là người làm và kinh doanh nghề mộc, và từng có thời gian làm thầy lang trong làng. Mẹ ông, Trần Thị Minh, vừa làm nội trợ, vừa làm vườn, ruộng và dệt vải.
Thuở nhỏ, Nam Cao học tại trường làng. Khi lên cấp tiểu học và trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học tại trường Cửa Bắc và sau đó là trường Thành Chung (nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định).
Năm 1934, sau khi hoàn thành bậc trung học, ông bị ngã bệnh nên chưa thể thi lấy bằng Thành Chung. Đầu năm 1935, Nam Cao kết hôn với bà Trần Thị Sen (tên thánh Maria Sen), người cùng làng. Tháng 11/1935, ông vào Sài Gòn, sinh sống tại đây trong 30 tháng, làm thư ký cho hiệu may Ba Lễ và bắt đầu sự nghiệp viết văn, gửi bài cho các báo.
Năm 1936, các truyện ngắn “Cảnh cuối cùng” và “Hai cái xác” của ông, viết dưới bút danh Thúy Rư, được đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy tại Hà Nội. Năm 1937, ông tiếp tục có các truyện ngắn như “Một bà hào hiệp”, “Nghèo”, “Đui mù” đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy và truyện “Những cánh hoa tàn” trên báo Ích Hữu (Hà Nội). Đến tháng 5 năm 1938, do lý do sức khỏe, Nam Cao trở về quê nhà.
Đến với nghề văn
Sau khi trở về miền Bắc, Nam Cao tự ôn luyện và thi lấy bằng Thành Chung. Sau đó, ông lên Hà Nội và bắt đầu công việc giảng dạy tại Trường tư thục Công Thanh, trên đường Thụy Khuê.
Trong thời gian này, ông đã cho ra mắt truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội Tân Văn (1940) và còn đăng thơ trên tờ báo này dưới các bút danh Xuân Du và Nguyệt.
Năm 1941, tập truyện đầu tay của Nam Cao mang tên Đôi lứa xứng đôi (ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ) được Nhà xuất bản Đời Mới ở Hà Nội phát hành và nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học nổi bật thời bấy giờ. Khi tái bản vào năm 1945, Nam Cao đã đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo.
Khi phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, các trường học bị trưng dụng, Nam Cao buộc phải rời Hà Nội, trở về giảng dạy tại Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, và sau đó về lại quê nhà ở Đại Hoàng.
Trong giai đoạn này, ông sáng tác nhiều tác phẩm quan trọng, trong đó có tiểu thuyết dài kỳ Truyện người hàng xóm đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật và hoàn thành tiểu thuyết Chết mòn, sau này được đổi tên thành Sống mòn.
Nam Cao Tham gia hoạt động cách mạng
Vào tháng 6 năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam, một tổ chức thuộc Mặt trận Việt Minh, và trở thành một trong những thành viên tiên phong của hội. Trước sự đàn áp khốc liệt, ông buộc phải rời Hà Nội và trở về quê nhà.
Năm 1945, trong cao trào Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia vào việc giành chính quyền tại phủ Lý Nhân và được bầu làm Chủ tịch xã trong chính quyền mới tại quê hương. Đến tháng 11/1945, ông trở lại Hà Nội, nhận nhiệm vụ Thư ký tòa soạn tạp chí Tiên Phong và sau đó được cử làm phái viên tham gia đoàn quân Nam tiến.
Cuối năm đó, ông trở về miền Bắc và trong thời gian từ 1945-1946, đã xuất bản nhiều tác phẩm trên tạp chí Tiên Phong, như truyện ngắn “Mò sâm-banh”, bút ký “Đường vô Nam”, truyện châm biếm “Nỗi truân chuyên của khách má hồng”, và truyện ngắn “Cách mạng”.
Cũng trong năm 1945, ông đổi tên truyện Đôi lứa xứng đôi thành Chí Phèo và in trong tập truyện Luống cày (do Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản), chung với các tác giả Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, và Kim Lân.
Cuối năm 1946, Nam Cao nhận nhiệm vụ tại Ty Văn hóa Hà Nam, làm việc cho báo Giữ nước và Cờ chiến thắng của tỉnh. Vào mùa thu năm 1947, ông lên Việt Bắc và trở thành Thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, đồng thời viết Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1950, Nam Cao chuyển sang công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong tòa soạn tạp chí Văn nghệ. Vào tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sĩ, và sau đó được cử làm Ủy viên Tiểu ban Văn nghệ của Trung ương Đảng. Cùng năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới.
Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng tham dự Hội nghị Văn nghệ Liên khu 3, sau đó cùng vào công tác tại khu 4. Nam Cao trở ra và tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp tại vùng địch hậu khu 3, đồng thời có ý định thu thập tài liệu cho tiểu thuyết sắp viết.
Trên đường vào vùng tề, đoàn bị chia ra bốn hướng và Nam Cao, do không biết bơi, đã bị quân Pháp phục kích và sát hại vào ngày 30 tháng 11 năm 1951 tại đồn Hoàng Đan, làng Vũ Đại, xã Gia Xuân, Gia Viễn, Ninh Bình.
Sau khi hy sinh, mộ phần của ông bị thất lạc. Đầu năm 1996, chương trình “Tìm lại Nam Cao” do Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức, với sự tham gia của 35 đơn vị như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, và báo Nhân Dân, đã giúp tìm lại ngôi mộ được cho là của Nam Cao tại nghĩa trang huyện Gia Viễn, Ninh Bình, sau đó được quy tập về quê hương ông ở xã Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam.
Mặc dù qua đời sớm, nhưng ảnh hưởng của Nam Cao đối với văn học Việt Nam vẫn rất lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và Nghệ thuật. Nhà tưởng niệm Nam Cao đã được thành lập vào ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại Hà Nam để tưởng niệm 53 năm ngày mất của ông.
Các tác phẩm của Nam Cao
Tiểu thuyết
- Truyện người hàng xóm (1944) – đăng trên Báo Trung Bắc Thứ Bảy
- Sống mòn (hoàn thành năm 1944, xuất bản năm 1956), do Nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành.
- Ngoài ra, còn có bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.
Truyện ngắn
Trước cách mạng
- Ba người bạn
- Đón khách
- Bài học quét nhà (1943)
- Bảy bông lúa lép
- Cái chết của con Mực
- Cái mặt không chơi được
- Chuyện buồn giữa đêm vui
- Cười
- Con mèo
- Con mèo mắt ngọc
- Chí Phèo (1941)
- Đầu đường xó chợ
- Điếu văn
- Đôi móng giò
- Đời thừa (1943)
- Đòn chồng
- Đui mù
- Nhỏ nhen
- Làm tổ
- Lang Rận
- Lão Hạc (1943)
- Mong mưa
- Một truyện xu-vơ-nia
- Một đám cưới (1944)
- Mua danh
- Mua nhà
- Một bữa no (1943)
- Người thợ rèn
- Nhìn người ta sung sướng
- Những chuyện không muốn viết
- Những trẻ khốn nạn
- Nghèo (1937)
- Nụ cười
- Nước mắt
- Nửa đêm
- Phiêu lưu
- Quái dị
- Quên điều độ
- Anh tẻ
- Rửa hờn
- Sao lại thế này?
- Thôi, đi về
- Giăng sáng (1942)
- Trẻ con không được ăn thịt chó (1942)
- Truyện biên giới
- Truyện tình
- Tư cách mõ (1943)
- Từ ngày mẹ chết
- Xem bói
- Dì Hảo (1941)
- Truyện người hàng xóm
- Rình trộm
- Đảo hang cọp (1942)
- Thám hiểm Châu Phi (1942)
Sau cách mạng
- Mò sâm banh (1945)
- Năm anh hàng thịt (1945)
- Một cuộc đốt làng (1945)
- Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946)
- Cách mạng (1946)
- Đôi mắt (1948)
- Đợi chờ
- Trần Cừ
- Những bàn tay đẹp ấy
- Hội nghị nói thẳng
- Định mức
Truyện ký kháng chiến
- Đường vô Nam
- Ở rừng (Nhật ký)
- Từ ngược về xuôi
- Trên những con đường Việt Bắc
- Bốn cây số cách một căn cứ địch
- Vui dân công
- Vài nét ghi qua vùng giải phóng
Ngoài các tác phẩm văn học, ông còn sáng tác thơ và biên soạn sách địa lý cùng tác giả Văn Tân, bao gồm: Địa dư các nước châu Âu (1948), Địa dư các nước châu Á, châu Phi (1969), và Địa dư Việt Nam (1951).
Danh hiệu tôn vinh Nam Cao
Nam Cao đã được vinh danh với Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật vào năm 1996. Tên của ông được đặt cho nhiều con đường tại các thành phố lớn như Quận Ba Đình, Hà Nội; Quận 9, TP. Hồ Chí Minh (hiện thuộc TP. Thủ Đức); TP. Đà Nẵng; TP. Biên Hòa, Đồng Nai; TP. Rạch Giá, Kiên Giang và nhiều địa phương khác.
Ngoài ra, tên ông còn được dùng để đặt cho một số trường học phổ thông, và có kế hoạch đặt cho một khu đại học tại Hà Nam. Đặc biệt, vào năm 2023, Tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định đặt tên ông cho một con đường dài 1.000m tại Phường Trần Phú.
Gia đình Nam Cao
Nam Cao, tên thật là Trí, sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông là con trai thứ hai trong gia đình có năm anh chị em. Mặc dù hoàn cảnh gia đình khó khăn, Nam Cao đã sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương và quyết tâm theo đuổi con đường học vấn.
Sau khi kết hôn, ông có với vợ năm người con, và gia đình nhỏ của ông cũng phải chịu nhiều khó khăn do chiến tranh và sự khắc nghiệt của thời kỳ bấy giờ. Dù vậy, Nam Cao luôn giữ vững tình yêu và trách nhiệm với gia đình, đồng thời tiếp tục sáng tác, để lại nhiều tác phẩm giá trị cho văn học Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nam Cao đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam. Với tài năng xuất sắc, ông đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với cuộc sống người dân nghèo, từ đó tạo nên những tác phẩm chân thực và cảm động. Những giá trị mà Nam Cao mang lại không chỉ nằm ở từng câu chữ, mà còn là tấm lòng nhân ái, sự trăn trở trước số phận con người và lòng khao khát về một xã hội công bằng, nhân văn hơn.
Chúng ta hy vọng rằng những tác phẩm của Nam Cao sẽ tiếp tục được đón nhận và lan tỏa rộng rãi, trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các thế hệ nhà văn, nhà thơ trẻ. Những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mà ông đã để lại sẽ luôn là tài sản quý báu của văn học Việt Nam, giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc sống và con người.