Tiểu sử Nguyễn Văn Linh – Người đưa Việt Nam qua những khó khăn
Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam, nổi tiếng với vai trò Tổng Bí thư từ năm 1986 đến 1991. Ông được biết đến như một kiến trúc sư của công cuộc Đổi Mới, đưa đất nước Việt Nam vượt qua những khó khăn về kinh tế và xã hội, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển sau này. Cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với những bước ngoặt lịch sử quan trọng, từ những năm tháng đấu tranh gian khổ cho đến khi ông đảm nhận những trọng trách lớn lao trong Đảng và Nhà nước.
Thông tin về Nguyễn Văn Linh
Nguyễn Văn Linh (tên khai sinh: Nguyễn Văn Cúc; 1 tháng 7 năm 1915 – 27 tháng 4 năm 1998) là một nhà lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nổi tiếng với vai trò Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng giai đoạn 1986–1991. Ông được xem là người tiên phong trong công cuộc Đổi Mới của Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Sinh ra tại tỉnh Hưng Yên, miền Bắc Việt Nam, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Linh lại gắn bó sâu sắc với miền Nam. Ông đã trải qua nhiều lần bị thực dân Pháp bắt và tù đày, nhưng điều đó không làm giảm đi sự kiên định của ông trong cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được phân công trở lại Sài Gòn để lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Năm 1962, ông được bầu làm lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam, chỉ đạo chiến lược trong suốt chiến tranh cho đến ngày đất nước thống nhất.
Nguyễn Văn Linh đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Trung ương Đảng trước khi trở thành Tổng Bí thư Đảng sau Đại hội VI vào ngày 18 tháng 12 năm 1986. Trong thời gian giữ chức vụ này, ông đã khởi xướng đường lối đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Năm 1987, với bút danh N.V.L. (viết tắt của “Nói Và Làm”), ông đã viết một loạt bài báo trong chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân, góp phần chấn chỉnh những tiêu cực trong xã hội và thúc đẩy tiến trình đổi mới.
Nhờ những cải cách Đổi Mới do Nguyễn Văn Linh dẫn dắt, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Chỉ sau một năm, lạm phát từ mức 774% đã giảm xuống còn 323,1% và tiếp tục hạ thấp còn 34,7% trong những năm sau đó. Ông cũng tích cực thúc đẩy quan hệ ngoại giao với các quốc gia trên thế giới, giúp Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước phương Tây, đồng thời thiết lập quan hệ với Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Điều này đã mở đường cho Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995.
Nguyễn Văn Linh rời chức Tổng Bí thư vào ngày 28 tháng 6 năm 1991, sau đó trở thành Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho đến khi nghỉ hưu vào ngày 29 tháng 12 năm 1997. Ông qua đời vào ngày 27 tháng 4 năm 1998, để lại một di sản to lớn cho sự phát triển và đổi mới của Việt Nam.
Hoạt động và sự nghiệp của nguyễn văn linh
Học vấn và hoạt động cách mạng đầu đời
Năm 1925, khi đang học tiểu học tại Hà Nội, Nguyễn Văn Linh theo bà nội và chú ruột Nguyễn Đức Thụ về Hải Phòng và tiếp tục học tại trường Bonnan (nay là Trường Trung học Phổ thông Ngô Quyền, quận Lê Chân, Hải Phòng). Tại đây, ông học lớp đệ nhất bậc Thành chung. Niên khóa 1929-1930, ông chuyển về học tại Trường Jean Dupuis. Năm 1929, Nguyễn Văn Linh tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo.
Ngày 1 tháng 5 năm 1930, khi mới 15 tuổi, ông cùng hai người bạn học là Nguyễn Văn Thiên và Lê Viên thực hiện nhiệm vụ rải truyền đơn cách mạng kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động tại phố Cát Dài. Kết quả, ông bị mật thám Pháp bắt giữ và bị kết án 18 tháng tù giam. Sau đó, vào ngày 26 tháng 1 năm 1931, tòa án Pháp xử lại vụ án với 191 tù chính trị, trong đó có 72 người tù cộng sản, và ông bị kết án chung thân, lưu đày đi Côn Đảo.
Thời gian lưu đày và phát triển sự nghiệp
Trong thời gian bị lưu đày tại Côn Đảo, Nguyễn Văn Linh đã có cơ hội gặp gỡ và học hỏi từ nhiều nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam như Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, và Phạm Hùng. Được sự hướng dẫn của các đồng chí lão thành, ông tiếp tục học văn hóa, nâng cao trình độ tiếng Pháp và lý luận Mác – Lênin. Năm 1936, khi Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm quyền, ông được trả tự do.
Sau khi được thả tự do, Nguyễn Văn Linh gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1936 và bắt đầu hoạt động cách mạng tại Hải Phòng. Tháng 3 năm 1937, Xứ ủy Bắc Kỳ được tái lập tại Hà Nội, ông được phân công giúp việc cho cơ quan Xứ ủy và sau đó trở lại Hải Phòng để tổ chức và củng cố Thành ủy Hải Phòng.
Tháng 4 năm 1937, tại cơ sở cách mạng ở Ngõ Đá, phố Cát Dài, Nguyễn Văn Linh cùng các đồng chí đã tham gia hội nghị thành lập Thành ủy Hải Phòng. Mặc dù được đề cử làm Bí thư Thành ủy, ông đã từ chối vì chưa chính thức là đảng viên. Sau đó, Xứ ủy Bắc Kỳ đã công nhận ông là đảng viên từ năm 1936 và phân công ông làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng – Kiến An khi Bí thư Nguyễn Văn Túc được điều chuyển sang khu vực khác.
Nguyễn Văn Linh là một trong những nhà lãnh đạo kiên trung của Đảng, người đã đóng góp quan trọng trong việc phát triển phong trào cách mạng, đấu tranh vì quyền lợi dân sinh, dân chủ tại Việt Nam. Sự nghiệp của ông không chỉ dừng lại ở việc đấu tranh trong nước mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế sau này.
Hoạt động tại miền Nam
Sau khi rời Bắc Bộ, Nguyễn Văn Linh chuyển vào miền Nam hoạt động cách mạng và trở thành cấp dưới trực tiếp của Bí thư Sài Gòn thời kỳ đó – bà Nguyễn Thị Minh Khai.
Năm 1939, Nguyễn Văn Linh tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Sài Gòn, sau đó được Đảng điều động ra Trung Kỳ để lập lại Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1941, ông bị bắt tại Vinh và bị kết án 5 năm tù, sau đó bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Đến năm 1945, ông tiếp tục hoạt động ở miền Tây Nam Bộ, rồi sau đó đảm nhận cương vị Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Năm 1947, Nguyễn Văn Linh trở thành Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, và đến năm 1949, ông giữ chức Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Từ năm 1955 đến 1960, Nguyễn Văn Linh giữ chức Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Từ năm 1957 đến 1960, ông là Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, giữ chức Bí thư (1961-1964), rồi Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Những đóng góp của Nguyễn Văn Linh đã góp phần quan trọng vào chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong Chiến tranh Việt Nam, Nguyễn Văn Linh là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam, chỉ đạo cuộc kháng chiến du kích chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ. Mặc dù hầu hết các nhiệm vụ của ông mang tính tổ chức hơn là quân sự, nhưng ông cũng có vai trò quan trọng trong việc huấn luyện các điệp viên bí mật của Việt Cộng để thâm nhập vào các tổ chức chính phủ ở Sài Gòn. Năm 1968, ông chỉ đạo cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân chống lại Việt Nam Cộng hòa, một bước ngoặt quan trọng của Chiến tranh Việt Nam.
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc và đất nước thống nhất năm 1975, Nguyễn Văn Linh được bổ nhiệm vào Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và trở thành Bí thư Thành ủy Sài Gòn. Khi thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh năm 1976, ông tiếp tục giữ chức Bí thư Thành ủy.
Hội nghị đà lạt và những xung đột nội bộ
Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng lần thứ IV, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương, giữ các chức vụ quan trọng như Trưởng ban Cải tạo Xã hội chủ nghĩa Trung ương, Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương, và Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến năm 1980.
Trong thời gian này, Nguyễn Văn Linh ủng hộ việc chuyển đổi kinh tế từ mô hình tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế nhiều thành phần, điều này dẫn đến xung đột với những lãnh đạo bảo thủ trong Đảng, đặc biệt là với Lê Duẩn – người có quan điểm kinh tế bảo thủ hơn. Xung đột nội bộ khiến ông bị cách chức khỏi Bộ Chính trị vào năm 1982. Theo những người bạn thân, Nguyễn Văn Linh từ chức sau khi không đạt được sự đồng thuận về tương lai kinh tế của miền Nam Việt Nam.
Trước Đại hội Đảng lần thứ V, Nguyễn Văn Linh xin rút khỏi Bộ Chính trị và trở lại làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1981, thay ông Võ Văn Kiệt. Sau này, ông chia sẻ với Võ Trần Chí, người kế nhiệm ông làm Bí thư Thành ủy, rằng ông rút lui vì cảm thấy không còn được sự tín nhiệm của các đồng nghiệp trong Đảng.
Từ ngày 12 đến 19 tháng 7 năm 1983, trong thời gian Tổng Bí thư Lê Duẩn đi nghỉ tại Liên Xô, Nguyễn Văn Linh đã tổ chức “hội nghị Đà Lạt” – một cuộc gặp gỡ bí mật với ba lãnh đạo cấp cao của Việt Nam là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Chí Công. Tại hội nghị này, ông cùng một số giám đốc doanh nghiệp thành công báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh và đề đạt nguyện vọng về cải cách kinh tế. Nội dung của hội nghị này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của Nguyễn Văn Linh và được ông vận dụng vào việc chuẩn bị văn kiện Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam – khởi xướng công cuộc Đổi Mới.
Hoạt động tại trung ương
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V tháng 8 năm 1985, khi Tổng Bí thư Lê Duẩn đang ốm yếu, Chủ tịch nước Trường Chinh đã thay ông chủ trì phiên họp. Nhận thấy những sai lầm trong chính sách kinh tế của Lê Duẩn đã đẩy đất nước vào khủng hoảng, Trường Chinh đã ban hành Cải cách Giá – lương – tiền và bổ nhiệm Nguyễn Văn Linh, người có quan điểm cải cách, vào Bộ Chính trị với hy vọng cải thiện tình hình kinh tế.
Tháng 6 năm 1986, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Ban Bí thư, với mục tiêu chuẩn bị cho ông kế nhiệm Lê Duẩn và chống lại những chính sách bảo thủ trong Đảng. Sau khi Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời vào ngày 10 tháng 7 năm 1986, Chủ tịch nước Trường Chinh tạm quyền Tổng Bí thư và tiếp tục chỉ đạo cải cách kinh tế. Tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Văn Linh chính thức được bầu làm Tổng Bí thư, bắt đầu thời kỳ Đổi Mới của Việt Nam.
Công cuộc đổi mới
Vào giữa những năm 1980, khi còn giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh đã bắt đầu thực hiện những bước thí điểm quan trọng trong việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế tại một số doanh nghiệp nhà nước ở thành phố đông dân nhất Việt Nam. Đây được coi là những bước đột phá đầu tiên trong việc xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã tồn tại ở Việt Nam trong nhiều năm. Những thay đổi này không chỉ phản ánh nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế mà còn giúp Đảng Cộng sản Việt Nam định hình đường lối và chính sách cho thời kỳ đổi mới.
Cuối tháng 5 năm 1987, trên trang nhất của báo Nhân Dân xuất hiện một bút danh mới là N.V.L với mục “nói và làm”. Ông đã viết một loạt bài “Những việc cần làm ngay”, ký tên N.V.L. Theo nhà báo Hữu Thọ, vào ngày 24 tháng 5 năm 1987, ông nhận được một phong thư từ Văn phòng Trung ương Đảng, bên trong là bài báo viết tay của Nguyễn Văn Linh với tiêu đề “Những việc cần làm ngay”, cùng lời nhắn rằng nếu ban biên tập thấy phù hợp thì hãy đăng bài.
Chuyên mục “những việc cần làm ngay” của Nguyễn Văn Linh đã được đăng trên trang nhất của báo Nhân Dân từ ngày 25 tháng 5 năm 1987 đến ngày 28 tháng 9 năm 1990. Nội dung của chuyên mục này tập trung tấn công vào nạn tham nhũng và sự kém cỏi của giới tinh hoa chính trị Việt Nam thời bấy giờ. Những bài viết này đã tạo ra một làn sóng phản ứng mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Từ năm 1986 đến 1991, trong nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh đã có những đóng góp mang tính quyết định, làm xoay chuyển tình thế và mở đường cho sự nghiệp đổi mới của đất nước. Để khắc phục những bất cập và lạc hậu của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, ông đã đưa ra những ý tưởng và cách làm mới, xóa bỏ các rào cản kinh tế như “ngăn sông cấm chợ”. Ông đã triệt tiêu quyền lực và sự lộng hành của một số thương nhân nhà nước hoặc mậu dịch quốc doanh biến chất, đồng thời kiên quyết chống lại tác phong quan liêu, xa dân. Nguyễn Văn Linh còn từ bỏ các đặc quyền đặc lợi của lãnh đạo cấp cao như sử dụng máy bay chuyên cơ trong nước, thay vào đó ông đi công tác bằng xe Lada và di chuyển bằng máy bay thương mại như mọi người dân khác.
Đóng góp trong thời kỳ đổi mới
Nguyễn Văn Linh đã đặt nền móng cho quá trình đổi mới tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các học giả đánh giá cao tầm quan trọng của ông trong việc phân tích và triển khai các cải cách trong bối cảnh rộng lớn hơn của công cuộc đổi mới. Ông thể hiện sự linh hoạt và khả năng thích ứng với xu hướng đổi mới, đặc biệt là trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông và các tổ chức quần chúng để thúc đẩy tư tưởng cải cách. Nguyễn Văn Linh đã đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo các phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương, nơi các quan điểm trái chiều về chính sách kinh tế và các vấn đề chính trị cơ bản được thảo luận một cách cởi mở. Chính phương thức hoạt động linh hoạt và sáng tạo của ông trong bộ máy quan liêu đã góp phần quan trọng vào sự thành công của công cuộc cải cách.
Chính sách đối ngoại
Trong nhiệm kỳ Tổng Bí thư của Nguyễn Văn Linh, Việt Nam đã rút quân khỏi Campuchia, điều này mở đường cho việc thiết lập, cải thiện và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia vào cuối Chiến tranh Lạnh. Chủ trương ngoại giao của Việt Nam thời kỳ này là “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Một sự kiện tiêu biểu trong chính sách đối ngoại của ông là việc bình thường hóa quan hệ Việt-Trung sau thời gian dài căng thẳng vì cuộc chiến tại Campuchia. Tại Hội nghị Thành Đô năm 1990, Nguyễn Văn Linh đã gặp gỡ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân, qua đó ra tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Kết quả của Hội nghị Thành Đô đã dẫn đến hàng loạt thay đổi quan trọng trong cả đối nội và đối ngoại của Việt Nam. Không chỉ thiết lập quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam còn thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và các nước ASEAN, đồng thời gia nhập ASEAN vào năm 1995. Những bước đi ngoại giao này đã mở ra một giai đoạn mới cho Việt Nam trên trường quốc tế, củng cố vị thế của đất nước sau thời kỳ chiến tranh và cấm vận kinh tế.
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1991-1997)
Sau khi hoàn thành nhiệm kỳ Tổng Bí thư từ năm 1986 đến 1991, Nguyễn Văn Linh quyết định không tái ứng cử vì lý do sức khỏe và mong muốn được làm công việc nhẹ nhàng hơn. Mặc dù nhiều người muốn ông tiếp tục là thành viên của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII sau khi khóa VI kết thúc vào năm 1991, ông đã từ chối và nói: “Dù không còn ở trong Trung ương nữa, nhưng với trách nhiệm là người đảng viên, tôi xin cố gắng cống hiến sự hiểu biết và kinh nghiệm nhỏ bé của mình cho cách mạng, cho Đảng cho đến hơi thở cuối cùng.” Vào ngày 27 tháng 6 năm 1991, Thủ tướng Đỗ Mười trở thành người kế nhiệm ông trong vai trò Tổng Bí thư.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII vào tháng 6 năm 1991 và Đại hội VIII vào tháng 6 năm 1996, Nguyễn Văn Linh được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong thời gian này, ông là đại biểu Quốc hội khóa VIII. Bắt đầu từ bài phát biểu đầy bất ngờ tại Đại hội VII và hàng loạt bức thư gửi báo chí trong nước, ông Linh đã thẳng thắn chỉ trích các nhà đầu tư nước ngoài vì cho rằng họ bóc lột quê hương và gây tổn hại đến đất nước. Ông cũng lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng và cáo buộc các công ty Mỹ bán phá giá hàng hóa tại Việt Nam thay vì hỗ trợ đất nước thông qua đầu tư và chuyển giao công nghệ. Trong một bài viết trên báo đảng vào tháng 7, ông cho rằng: “Vấn đề không phải là cầu xin các nhà tư bản nước ngoài mà là quản lý và đưa ra các chính sách có lợi hơn cho nền kinh tế trong nước. Tôi mong rằng trong tương lai, Việt Nam sẽ tìm mọi biện pháp để quan hệ quốc tế của chúng ta trở nên bình đẳng hơn.”
Nguyễn Văn Linh tiếp tục giữ vai trò Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng sau Đại hội VIII. Đến ngày 29 tháng 12 năm 1997, ông cùng với Phạm Văn Đồng và Võ Chí Công từ chức vì lý do tuổi cao sức yếu. Trước đó, vào ngày 26 tháng 12, Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng nộp đơn xin từ chức, cùng với Chủ tịch nước Lê Đức Anh và Thủ tướng Võ Văn Kiệt xin rút khỏi Bộ Chính trị.
Nghỉ hưu và qua đời
Ngày 29 tháng 12 năm 1997, sau khi từ chức Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Văn Linh chính thức nghỉ hưu để điều trị căn bệnh đã hành hạ ông từ trước Đại hội VII. Ông qua đời vào ngày 27 tháng 4 năm 1998, chỉ ba ngày trước kỷ niệm 23 năm ngày giải phóng miền Nam, do căn bệnh ung thư gan – nguyên nhân khiến ông phải rút khỏi Trung ương. Ông hưởng thọ 82 tuổi.
Lễ quốc tang của ông được tổ chức vào ngày 29 tháng 4 năm 1998 và linh cữu được quàn tại Hội trường Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nhận xét rằng Nguyễn Văn Linh là một nhà lãnh đạo tận tụy, đổi mới, sáng tạo, cống hiến hết mình cho Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sau lễ quốc tang, linh cữu của ông được an táng tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.
Phong tặng và vinh danh
Nguyễn Văn Linh đã được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương khác để ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho đất nước. Tên của ông được đặt cho nhiều đường phố và trường học trên khắp Việt Nam, như ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng, và Đồng Hới. Tại quê hương Hưng Yên, Đài Phát thanh – Truyền hình Hưng Yên nằm trên con đường mang tên ông, và nhà tưởng niệm ông cũng được xây dựng tại chính nơi ông sinh ra.
Gia đình
Phu nhân của Nguyễn Văn Linh là bà Ngô Thị Huệ (1918-2022), một đảng viên trung thành được kết nạp Đảng từ năm 1936. Bà từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo Thành phố Hồ Chí Minh, Đại biểu Quốc hội Việt Nam từ khóa I đến khóa IV, Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Long, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Sài Gòn, và Vụ trưởng Vụ Cán bộ thuộc Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai ông bà có ba người con: con gái đầu lòng Nguyễn Thị Hòa sinh năm 1953, con gái thứ Nguyễn Thị Bình sinh năm 1954, và con trai Nguyễn Hùng Linh (hay Nguyễn Văn Linh) sinh khoảng năm 1957. Bí danh Nguyễn Văn Linh thực chất được ông lấy theo tên người con trai út của mình.
Nguyễn Văn Linh đã để lại một di sản quan trọng trong lịch sử hiện đại của Việt Nam. Với tầm nhìn chiến lược, lòng tận tụy và sự kiên định, ông đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển và đổi mới của đất nước. Những đóng góp của ông không chỉ được ghi nhận qua những thành tựu kinh tế mà còn qua sự tôn vinh và tri ân của nhân dân Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Linh sẽ mãi mãi là tấm gương sáng về tinh thần cống hiến vì đất nước, vì nhân dân.